Thứ Năm, 9 tháng 7, 2009

Đề đáp án ĐH 2009

Khối C
Tham khảo:
Thanh niên online http://www.thanhnien.com.vn/News/Documents/GiaoDuc/DHCD2009/Goi%20y/GoiymonVankhoiC.doc


Chính thức của BGD:


Khối D
Tham khảo
Thanh niên online: http://www.thanhnien.com.vn/News/Documents/GiaoDuc/DHCD2009/Goi%20y/GoiymonVankhoiD.doc


Chính Thức của BGD:



So sánh người Vợ nhặt và người Đàn bà hàng chài

Câu III.a. Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm): Khối C ĐH 2009

Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
- Kim Lân và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Vợ nhặt ” và “Chiếc thuyền ngoài xa” là những truyện ngắn dung dị nhưng đã để lại nhưng ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả.
- Qua hai thiên truyện, các tác giả đã giúp người đọc khám phá và rung động trước những “vẻ đẹp khuất lấp” của những con người lam lũ, đói khổ, đặc biệt là nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà làng chài.
- Vẻ đẹp khuất lấp là những vẻ đẹp không dễ nhận thấy, thường ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí… Nguyễn Minh Châu luôn tâm niệm: thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người.
- Người vợ nhặt và người đàn bà làng chài đều là những người vô danh tính, có só phận nhiều thua thiệt, bị cuộc sống dồn đẩy vào những hoàn cảnh trớ trêu, éo le…
- Tuy nhiên, ở họ vẫn lấp lánh những vẻ đẹp:
+ Tình yêu cuộc sống mãnh liệt: người vợ nhặt bỏ qua những mạc cảm, sự sĩ diện… theo không một người đàn ông mới gặp để không bị cái đói cuốn xuống vực thẳm; người đàn bà làng chài nhẫn nhịn chịu đựng người chồng vũ phu để được hưởng niềm vui làm vợ, làm mẹ…
+ Đức hi sinh, lòng vị tha: người đàn bà làng chài không oán chồng, luôn nhận lỗi về mình trong bi kịch gia đình, luôn trân trọng, chắt chiu những niềm vui nhỏ bé; người vợ nhặt đã chấp nhận thực tế phũ phàng để cùng mẹ con Trang xây dựng tổ ấm gia đình…
+ Thấu trải lẽ đời: người đàn bà làng chài đã khiến Đẩu và Phùng ngộ ra những chân lí sâu kín của cuộc đời, người vợ nhặt đã hiểu thấu tấm lòng nhân ái bao dung của bà cụ Tứ mà thay đổi để trở thành dâu con trong gia đình….
- Với việc khám phá, ngợi ca những vẻ đẹp khuất lấp tiềm ẩn của tâm hồn con người lao động bình dị, lam lũ, hai nhà văn đã góp phần tạo nên những giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc.

Tình huống truyện trong CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Câu III.b. Chương trình Nâng cao (5,0 điểm): ĐH 2009 Khối D
Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
1. Giới thiệu chung:
Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân
- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.
2. Phân tích tình huống truyện
a -Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
b- Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện
- Ở ngoài bãi biển
+ Nghệ sĩ Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp trời cho trên một vẻ đẹp mờ sương, mặt biển mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: hình ảnh chiếc thuyền lướt vó nhạt nhoà trong làn sương mù màu trắng buổi bình minh… Phát hiện ấy khiến người nghệ sĩ cảm thấy sung sướng hạnh phúc, tưởng tâm hồn mình được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi, bắt gặp các tận Thiện, tận Mĩ.
+ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện ra một sự thực trớ trêu và đầy nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch dữ dằn độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách giải toả những ấm ức khổ đau. Phùng cay đắng nhận thấy: hoá ra đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của “chiếc thuyền ngoài xa” trên biển sớm mờ sương lại là một sự thực tàn nhẫn của bi kịch gia đình. Đằng sau cái vẻ đẹp ấy mới là sự thực của cuộc đời. Cái vẻ đẹp bên ngoài ấy nhiều khi thường đánh lừa ta như vậy.
- Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hang chài van xin để toà cho chị được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời.
c-Ý nghĩa tình huống truyện:
- Giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng và nghệ thuật: cái bên ngoài chưa hẳn là bản chất thật bên trong, nhiều khi còn đối lập với phẩm chất bên trong, không phải bao giờ cái Đẹp cũng thống nhất với cái Thiện, vì thế, cần phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc, cảm thông với cuộc sống và con người. Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm người nghệ sĩ: Không nên tách rời nghệ thuật với cuộc đời, cần phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật; nghệ sĩ không được nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, và biết trăn trở về con người.
- Thể hiện một cách rõ nét nhất khả năng ứng xử, phẩm chất, tính cách của các nhân vật:
* Người đàn bà:
+ Chịu nhiều thua thiệt, éo le của số phận, cuộc đời chất chồng những cay đắng khổ đau: vất vả trong công cuộc mưu sinh, thường xuyên bị hành hạ về thân xác, đau khổ dằn vặt về tinh thần
+ Nhưng ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.
* Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
+ Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác.
+ Hiện thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.
- Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

Nhóm giáo viên môn Văn trường THPT Chu Văn An - Hà Nội

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2009

Để làm tốt môn Văn nên dùng chiến thuật "Rút xương cá"

Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung - Giáo viên Ngữ Văn, trường THPT chuyên ngữ - Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội: Tài liệu tham khảo ôn tập môn Văn hiện rất nhiều. Trong số đó, có những vấn đề còn gây tranh cãi như: Ngày sinh của nhà văn Nam Cao, vở kịch “Hồn trương Ba da hàng thịt” được viết năm nào... Nếu kiến thức chưa thống nhất, thí sinh nên sử dụng số liệu từ sách giáo khoa.
Điểm quan trọng nhất của môn Văn là nhớ được kiến thức, chỉ cần dựa vào tác phẩm, nhớ tác phẩm là làm bài tốt.
Học sinh có thể tham khảo phương pháp “rút xương cá”: Học Văn theo cách sơ đồ hóa. Mỗi bài, học sinh chỉ cần nhớ năm chữ và trong khoảng 10 phút có thể nhớ hết toàn bộ kiến thức môn Văn.
Ví dụ, khi phân tích tính sử thi của tác phẩm “Rừng xà nu”, theo tôi, các em chỉ cần nhớ bốn từ: Chủ - Cốt - Hình - Giọng (Chủ đề, cốt truyện, hình tượng và giọng điệu sử thi trong tác phẩm).
Nếu vận dụng được phương pháp “rút xương cá” một cách hiệu quả, sẽ không bị mất các ý môn Văn và việc đạt điểm 8, hay 9 không phải "bất khả thi".
Hay, phân tích hình tượng sóng trong bài “Sóng” của Xuân Quỳnh, các em chỉ cần nhớ bốn chữ: “Phức - Trăn - Khắc - Khát” (tâm trạng phức tạp, trăn trở, khắc khoải và khát khao của người phụ nữa đang yêu). Từ đó, phát triển ý của bài văn.
Đây là năm đầu tiên có kiểu đề mới nghị luận xã hội và thường học sinh kêu “khô”. Tuy nhiên, quan trọng là phải đọc đề kỹ, hiểu chính xác vấn đề, trả lời đúng, sâu vào trọng tâm câu hỏi.
Thí sinh không nên dẫn dắt vòng vèo, lan man, mất thời gian và gây ức chế cho người chấm.

Tiền phong online

Kinh nghiệm làm bài môn Văn

Cô Nguyễn Thị Phương Liên, nguyên giáo viên chuyên Văn trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (Q.5, TP.HCM), hiện đang tham gia giảng dạy tại trường ĐH Kiến trúc TP.HCM: Không nên học tủ

- Trước ngày thi, các TS đừng căng thẳng quá và đặc biệt là không nên tin vào những tin đồn trên internet về đề thi, tránh học tủ, đoán mò, phải tập trung tinh thần để có cảm hứng viết bài. Ngoài ra, không nên loại trừ đề thi trong ba năm gần đây, không nghiêng hẳn về một thể loại văn xuôi hoặc thơ mà phải ôn tập cả hai.

Đề thi có ba yêu cầu: nội dung, phương pháp và tư liệu. Khi cầm đề thi, TS phải chú ý yêu cầu phân tích của đề về tác phẩm, tránh viết lan man. Nhiều TS học rất nhiều, ôm đồm kiến thức mà không biết ứng dụng nó vào trường hợp thực tế, dẫn đến tình trạng làm bài dư thừa, dài dòng. Nhiều trường hợp TS biến bài phân tích một đoạn trích, một khía cạnh của tác phẩm thành bài phân tích cả tác phẩm. Những trường hợp "phăng" ý không có cơ sở và chép nguyên si bài giảng của thầy cô trong lớp về các tác phẩm thường bị dưới điểm trung bình vì không bám sát đề.

Cấu trúc đề thi thường có ba câu bao gồm: phần lý thuyết và phần tự luận. Câu lý thuyết mang tính kiểm tra kiến thức, thường chiếm 2 điểm. Hai câu còn lại kiểm tra sự cảm thụ tác phẩm, cách lập luận và kỹ năng làm bài của TS. Yêu cầu chung với câu lý thuyết là trả lời đúng yêu cầu của đề thi, ngắn gọn, rõ ràng và đủ ý. Với những câu tự luận, TS nên trình bày đúng bố cục mở bài, thân bài, kết bài. Phần thân bài nên chú ý lập luận chặt chẽ, rõ ràng, nên viết ra giấy nháp dàn ý đề cương phần thân bài, chia các ý lớn theo trình tự lập luận.

Về cách trình bày, nên chú ý những lỗi chính tả (dấu hỏi, dấu ngã, các âm cuối), lỗi viết hoa... Chẳng hạn cách viết bài thơ Thu Điếu, Tràng Giang là sai, mà phải là Thu điếu, Tràng giang.

Một điều không kém phần quan trọng mà nhiều TS thường bị mất điểm là không biết cách đưa dẫn chứng vào bài làm. Dẫn chứng đưa vào bài phải chính xác (dẫn chứng đúng yêu cầu của luận điểm cần chứng minh, phân tích), gọn (làm nổi bật luận điểm vấn đề cần phân tích) và phải tiêu biểu. Đối với văn xuôi, TS có thể dẫn chứng nguyên văn hoặc tóm lược dẫn chứng, nhưng không được kể chuyện. Tốt nhất là xen kẽ tóm lược dẫn chứng với những lời bình luận, phân tích.

Thạc sĩ Lưu Văn Quyết, giảng viên Khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH-NV TP.HCM: Lập dàn bài vào giấy nháp trước khi viết

Thời gian thi đã gần kề, các TS không nên nhồi nhét kiến thức, hãy nghỉ ngơi để giúp tinh thần thoải mái.

Khi cầm đề thi nên đọc kỹ để xác định yêu cầu của đề là phân tích, so sánh hay nhận định các sự kiện lịch sử, tránh làm lạc đề. Đặc biệt, nên khoanh vùng thời gian và sự kiện lịch sử diễn ra ở giai đoạn/thời kỳ nào. Khi đọc đề, nên viết nhanh vào giấy nháp để không quên. Sau đó, lập đề cương trong giấy nháp khoảng 10-15 phút, vạch ra những sự kiện chính và đánh dấu những cột mốc quan trọng để viết kỹ hơn.

Chỉ nên chọn những câu nào làm được thì làm trước, tạo tâm lý thoải mái, không nên chọn câu nhiều điểm và sa lầy vào mất nhiều thời gian. Phần mở bài không nên viết quá dài, chỉ chuyển ý ngắn gọn vài dòng rồi chuyển ngay vào trọng tâm để kịp thời gian.

Về cách trình bày, sau khi hết một ý chính, một sự kiện nên xuống hàng và thụt đầu dòng, trình bày văn phong trong sáng, chữ viết sạch đẹp.

Một điều TS cần lưu ý là nên phân chia thời gian cho các câu hỏi, cố gắng làm hết, không bỏ sót. Và cuối giờ thi nên dành 10-15 phút đọc lại bài. Đây là một bước không kém phần quan trọng để TS nhận ra những thiếu sót của mình trong quá trình làm bài.


Cẩm Thúy - Thanhnien online

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2009

Hạt bụi vàng lấp lánh

Tác giả:
-Nguyễn Khải là người trải nghiệm nhiều , thời niên thiếu đầy éo le hình thành đặc điểm riêng trong tính cách và sáng tác của nhà văn: nhẫn nhịn, tỉnh táo, sắc sảo, hiểu đời, hiểu người, già dặn, suy tư.
- Tác phẩm chính: Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Cha và Con và… (tiểu thuyết, 1979), Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2004)…
- Đặc điểm sáng tác:
• Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ.
• Nét mới trong cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời và con người:
o Trước 1978: cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, nghiêm ngặt, phân lập đơn chiều; luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, ta – địch, tốt – xấu… => khẳng định xu thế vận động (từ bóng tối ra ánh sáng) của cuộc sống mới, con người mới.
Ngòi bút văn xuôi có khuynh hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo.
o Sau 1978:
Cái nhìn đầy trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận hiện thực xô bồ, hối hả, đầy đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc => chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội.
Lấy việc khám phá con người làm trung tâm => con người cá nhân trong cuộc sống đời thường => nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ => khẳng định, ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay.
Cảm hứng triết luận với giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều suy nghiệm.
+ Vị trí văn học sử: một trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tác phẩm
MNHN tiêu biểu cho các sáng tác của Nguyễn Khải ở giai đoạn sau 1978.
Hình tượng nhân vật cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất diệt của văn hoá Hà thành.
a. Nhân vật cô Hiền.
+ Xuất thân: gia đình giàu có lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan.
+ Một số đặc diểm thời thiếu nữ: xinh đẹp, thông minh, mở xa lông văn chương, giao du rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành.
+ Quan hệ với người kể chuyện xưng “tôi”: chị em đôi con dì ruột với mẹ già.
+ Được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Trước mỗi thời điểm khác nhau, nhân vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện nét cá tính đặc biệt, nhất quán:
- Năm 1955:
• Bối cảnh: từ kháng chiến trở về, một Hà Nội “nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”.
• Nguyên nhân cô Hiền và gia đình ở lại:
Chủ yếu: “họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác” => sự gắn bó máu thịt với Hà thành.
- Kháng chiến chống Mĩ: yêu thương lo lắng cho con nhưng không hề ngăn cản con nhập ngũ
• Người con cả tình nguyện tòng quân => phản ứng: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng” => Nhận thức sâu sắc.
• Người con thứ theo anh lên đường => phản ứng: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”=> “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác(…), vui lẻ thì có hay hớm gì” => Ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng của một người phụ nữ Việt Nam yêu nước, một người mẹ nhân hậu, vị tha.
- Năm đầu Hà Nội vừa giải phóng
• Bối cảnh:
o Tâm lí không đồng nhất: chúng tôi - vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội - chưa thật vui?
• Khi con gọi cháu là “Đồng chí Khải” => cô Hiền chỉnh “anh Khải” => trong khi quán tính số đông vẫn còn phân biệt người cách mạng như những anh hùng trở về thì cô Hiền dường như chỉ chú ý đến mối quan hệ họ hàng với “Tôi” => quan hệ bền vững, không chịu bất cứ sự va đập, biến thiên nào của thời cuộc => biết nhận chân giá trị, biết nhìn vào bản chất của vấn đề, để không bao giờ bị mê muội.
• Khi người cháu hỏi: “Nước độc lập vui quá cô nhỉ?” => phản ứng:
o Trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ” => tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén với hiện thực.
o Nhận xét thẳng thắn, không giấu giếm quan điểm với “người cách mạng” - nhân vật “tôi”: Chính phủ can thiệp nhiều vào việc của dân quá ….=> trung thực, có cái nhìn sâu sát về thời cuộc.
Trong thời kỳ đầu MB XDCNXH: Có bộ mặt tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản được
- Bộ mặt tư sản:
• Cái ở: ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn.
• Cái mặc: “sang trọng quá”
• Cái ăn: “không giống với số đông” => so sánh với lối ăn uống bình dân của gia đình “tôi”
=> Khẳng định: “Cô Hiền đích thị là tư sản”.
-Nhưng thực chất: Không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản:
• Cửa hàng chỉ buôn hoa giấy do chính tay bà làm và các con phụ giúp.
• Đối xử với người làm: vì chủ tớ cần dựa nhau, tình nghĩa như người trong họ.
==> người lao động chân chính, có nhân có nghĩa

-KCCM, bà thương con vô cùng nhưng sẵn sàng cho con ra trận với suy nghĩ “Tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn.Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Bà nói “ Ngăn cản n tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, vui lẻ thì có hay hớn gì” => Cách sống của con người có lòng tự trọng, có bản lĩnh gắn với ý thức trách nhiệm của một công dân yêu nước biết vượt lên cái nhất thời.

==> Tính cách nhân vật được bộc lộ qua nhiều tình huống khác nhau, trong nhiều thời điểm lịch sử.
Số phận con người gắn với từng biến chuyển lớn của lịch sử dân tộc => Cái nhìn hiện thực mới mẻ: phản ánh số phận dân tộc qua số phận một cá nhân.Trải qua bao thăng trầm của thời thế, bản chất, những nét đẹp của nhân vật vẫn thống nhất, không bị phôi pha => thời gian là thứ nước rửa ảnh làm nổi rõ hình sắc nhân vật.
Tính cách cụ thể :
+ Thông minh, tỉnh tảo và thức thời:
- Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.
- “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”
- Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước
• Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.
• Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.
+ Có đầu óc thực tế:
- Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.
- Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.
- Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.
- Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.
+ Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:
- Dặn dò bọn trẻ: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”.
- Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.==> cái nền của đạo đức, của việc làm người
- Suy nghiệm triết học: Hình ảnh cây si bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh
+ Cây si: biểu tượng của văn hóa, nét cổ kính, linh thiêng của đất kinh kì ngàn năm văn hiến.
+ Đổ nghiêng tán cây đè lên hậu cung, một phần bọ rễ bật đất chổng ngược lên trời => sự biến thiên của lịch sử, qui luật nghiệt ngã của tự nhiên.
- Hồi sinh: lại sống. lại trổ ra lá non => niềm tin, lạc quan vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội.
==> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành. (Ý nghĩa nhan đề)

b. Những người Hà Nội khác và suy nghiệm triết học:
+ Những người Hà Nội khác: Chia làm hai tuyến.
- Dũng, Tuất, mẹ Tuất:
• Dũng, Tuất: những thanh niên yêu nước, quả cảm.
• Mẹ Tuất: bà mẹ Việt Nam nhân hậu, giàu đức hi sinh.
=> Những con người cùng với cô Hiền tiếp lửa cho ngọn đuốc văn hoá truyền thống của đất kinh kì cháy sáng.
- Những con người tạo nên những nhận xét “không mấy vui vẻ” của “tôi” về Hà Nội.
• Ông bạn trẻ đạp xe như gió: làm xe người ta suýt đổ, lại phóng xe vượt qua rồi quay lại chửi một người đáng tuổi bác tuổi chú “tiên sư cái anh già” => thô tục, vô văn hóa, không biết lễ độ.
• Những người mà nhân vật tôi quên đường hỏi thăm :”có người trả lời, là nói sõng hoặt hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như con thú lạ” chỉ vì “ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi cái Cúp xem, thưa gửi tử tế ngay” => hám lợi, bị danh vị, hình thức, tiền tài cám dỗ => lối ứng xử trọc phú, không còn nét hào hoa, thanh lịch của người Hà Nội.
 Qua hình tượng các nhân vật, tác giả nhìn thẳng vào sự thật, đặt ra những vấn đề đáng trăn trở => hướng đi mới của văn học:“Tôi thích cái ngày hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen. Đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thỏa sức khai vỡ” (Gặp gỡ cuối năm – Tiểu thuyết).

Giá trị nghệ thuật
+ Ngôn ngữ: kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa
- Cô Hiền: ngắn gọn, logic, rõ ràng.
- Dũng: những lời thật xót xa.
- Ít miêu tả, chủ yếu là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa.(VD hình ảnh cây si, hạt bụi vàng..)
+ Giọng điệu trần thuật:Trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, sử dụng lối văn trần thuật trải đời, vừa tự nhiên, dân dãvùa tĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát triết lý vừa mang giọng điệu đa thanh (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự trào)tăng tính chân thật, khách quan.
- Nguyển Khải đã xây dựng một hình tượng nhân vật khá độc đáo: bà Hiền như Một người Hà Nội đích thực
- Ngôn ngữ sắc sảo, giàu tính trí tuệ, uyên bác, giọng văn linh hoạt: lúc trầm lắng, lúc hóm hỉnh tự trào, lúc sôi nổi thể hiện cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm về con người.  Cảm hứng triết luận - một trong những nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải.
Giá trị nội dung- Qua nhân vất , ta thấy tác giả nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ… để ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của con người và cuộc sống hôm nay.
- Khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội
- Niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau.
=> Tác giả đề xuất một tiêu chuẩn thẩm mĩ về một con người: con người cần được nhìn, khẳng định ở góc độ văn hóa
==> Ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá , đất nuớc, con người Việt Nam.

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2009

Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ...

Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết:"Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ.Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biẻu ý kiến về quan niệm trên.

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.
Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?
“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn...nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.
“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn).
Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.
Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:
“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”
(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu)
Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời” , chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng toếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết rằng :
Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy
(Chế Lan Viên)
Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng? “Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ ) và “ Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguuyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?
Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi viễn chí”. Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí” (nghĩa là : văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái “tâm” của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.
Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại , là “lương tâm của mọi thời đại” (Balzac). “Văn phải chở đạo”, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là “văn đáng thờ”.
Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: “Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chuơng ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy đươc nghĩa lí trong đó, là bậc thứ ahi. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chuơng mà thôi”.
Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu múôn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - thiện- mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ứôc một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy đựơc thế giới tâm hồn của A. Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một “thằng gù” cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà khôgn nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào...Và ta khẳng định rằng : Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau lúc đọc” đấy chỉ là “thợ” đàu với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đưòng khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc “Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước. Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua ĐẾ Thuấn canh vấn. Cùng quăng, cùgn quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá”. Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay.
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn : “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại,văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúgn ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc đựơc thêm trong sạch và phong phú hơn”
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
(Truyện Kiều)
Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn học là một cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu “văn chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?
Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định : “Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn ! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính ( nghĩa là văn chương của cái đẹp ) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và “văn chương chuyên chú ở con người” là hai mặt của một tờ giấy trắng. “Văn chương chuyên chú ở con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hản anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân laọi này hiểu anh, hiểu cái “tâm” của anh - Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.
Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương chuyên chú ở văn chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”.Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này là tốt gỗ” và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào?
Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương” thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”.
Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái “tình” muôn thuở.
Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ “tâm” là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nàh thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2009

Đề-Đáp án thi thử Phú Yên 2009

I.PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5.0 ĐIỂM)
Câu I: (2.0 điểm)
Anh/chị hãy nêu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn Lỗ Tấn.
Câu II: (3.0 điểm)
Nhạc sĩ S.Gu-nô người Pháp nói: Năm hai mươi tuổi tôi nói: “Tôi và Mô-da”.Năm ba nươi tuổi, tôi nói: “Mô-da và tôi”.Năm bốn mươi tuổi, tôi nói: “Chỉ có Mô-da”.
Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên.

II.PHẦN RIÊNG (5.0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó.
(Câu IIIa hoặc IIIb)
Câu IIIa.Theo chương trình Chuẩn (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mặt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Ngữ văn 12,tập một,NXB Giáo dục,2008,tr.89)

Câu IIIb. Theo chương trình Nâng cao (5.0 điểm)
Phân tích sự thay đổi tâm trạng của nhân vật Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ than xác anh hàng thịt trong đoạn trích của vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt của tác giả Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12 Nâng cao,tập một).

---***---
ĐÁP ÁN VÀ THANG ĐIỂM

I.PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5.0 ĐIỂM)

Câu I: (2.0 điểm)
A.Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau,song cần nêu bật được các ý chính sau đây:
-Lỗ Tấn (1881-1936) tên khai sinh là Chu Thụ Nhân,quê ở Chiết Giang,Trung Quốc.
-Ông ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc từ khi còn nhỏ và được sang Nhật học,nhưng Lỗ Tấn đã nhận thấy chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần nên ông đã chuyển sang viết văn.
-Ông là nhà văn cách mạng có ảnh hưởng lớn trên văn đàn Trung Quốc thế kỉ XX.
-Các tác phẩm của Lỗ Tấn thường tập trung vào chủ đề:Phê phán căn bệnh tinh thần kìm hãm sự phát triển của đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ,từ đó kêu gọi đồng bào kiếm tìm phương thuốc để cứu dân tộc.
-Tác phẩm tiêu biểu của Lỗ Tấn:các tập truyện ngắn Gào thét,Bàng hoàng,Chuyện cũ viết lại,…;tạp văn Nấm mồ,Cỏ dại,Gió nóng,…
B.Cách cho điểm:
-Điểm 2:Đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên,có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 1:Trình bày được một nửa yêu cầu trên,còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 0:Hoàn toàn lạc đề.

Câu II: (3.0 điểm)
A.Yêu cầu về kĩ năng
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận xã hội;bài làm có kết cấu chặt chẽ,diễn đạt lưu loát,không mắc lỗi về chính tả,dùng từ và ngữ pháp.
B.Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể đưa ra nhiều ý kiến riêng và trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần hợp lí ,thiết thực ,chặt chẽ và có sức thuyết phục.Cần nêu bật được các ý sau:
-Sự trưởng thành trong nhận thức, bài học về đức tính khiêm tốn của mỗi con người.
-Nhận thức cuộc sống theo chiều dài của sự chiêm nghiệm,càng trải nghiệm trong cuộc sống,con người càng chín chắn hơn trong nhận thức.
-Bài học về sự khiêm tốn,thận trọng và chín chắn,không nên chủ quan,phiến diện khi đánh giá con người và đời sống,luôn tu dưỡng rèn luyện để trở thành con người toàn vẹn.
C.Cách cho điểm:
-Điểm 3:Đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên,có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2:Trình bày được một nửa yêu cầu trên,còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1:Nội dung sơ sài ,diễn đạt yếu.
-Điểm 0:Hoàn toàn lạc đề.

II.PHẦN RIÊNG (5.0 ĐIỂM)

Câu IIIa.Theo chương trình Chuẩn (5.0 điểm)
A.Yêu cầu về kĩ năng
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học phân tích tác phẩm trữ tình;bài làm có kết cấu chặt chẽ,diễn đạt lưu loát,không mắc lỗi về chính tả,dùng từ và ngữ pháp.
B.Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh dựa trên cơ sở những hiểu biết về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng,phát hiện và phân tích những đặc sắc về nghệ thuật (cách dùng từ Hán Việt, xây dựng hình ảnh,…) để làm nổi bật giá trị của đoạn thơ.Thí sinh có thể triển khai theo nhiều hướng khác nhau nhưng cần nêu được những nội dung cơ bản sau:
-Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến:là những anh hùng trận mạc nhưng cũng là những tâm hồn lãng mạn,những trái tim khao khát,rạo rực yêu thương,đầy mơ mộng.
-Hình ảnh người lính Tây Tiến chói ngời vẻ đẹp lí tưởng,coi cái chết nhẹ tựa long hồng.Lời thơ nói về hi sinh,mất mát nhưng không bi lụy mà mang đậm chất bi tráng.
-Nghệ thuật dùng từ Hán Việt,bút pháp lãng mạn.
C.Cách cho điểm:
-Điểm 5:Đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên,có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3:Trình bày được một nửa yêu cầu trên,còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1:Phân tích quá sơ sài ,diễn đạt yếu.
-Điểm 0:Hoàn toàn lạc đề.

Câu IIIb. Theo chương trình Nâng cao (5.0 điểm)
A.Yêu cầu về kĩ năng
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học theo đặc trưng thể loại kịch;bài làm có kết cấu chặt chẽ,diễn đạt lưu loát,không mắc lỗi về chính tả,dùng từ và ngữ pháp.
B.Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh dựa trên cơ sở những hiểu biết về vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt của tác giả Lưu Quang Vũ,phát hiện và phân tích những đặc sắc về nghệ thuật kịch,qua đó làm nổi bật những nét tính cách và sự thay đổi của nhân vật Trương Ba;đồng thời nêu lên những cảm nhận riêng:
-Sự đau khổ của Hồn Trương Ba khi phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu,có những thay đổi đặc biệt (hoàn cảnh đặc biệt của Trương Ba).Nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba khi phải sống không được là chính mình,ở trong gia đình của mình mà như giữa người xa lạ.
-Trương Ba đã đấu tranh với hoàn cảnh trớ true của chính mình và đã quyết định:không sống nhờ vào than xác người khác “bên trong một đàng bên ngoài một nẻo”.Trương Ba không thể chịu nổi tình trạng bi hài này (sự “lệch pha” giữa hồn và xác).
-Điều này khẳng định triết lí:Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa,không thể có một tâm hồn thanh cao trong một than xác phàm tục,tội lỗi.Sống thực sự cho ra con người qủa không hề dễ dàng,đơn giản.Khi sống nhờ,sống gửi,sống chắp vá,khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
-Vở kịch phản ánh tài năng sáng tác độc đáo,tài ba của Lưu Quang Vũ.

C.Cách cho điểm:
-Điểm 5:Đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên,có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3:Trình bày được một nửa yêu cầu trên,còn mắc một số lỗi diễn đạt.
-Điểm 1:Phân tích quá sơ sài ,diễn đạt yếu.
-Điểm 0:Hoàn toàn lạc đề.
__________________

Đề-Đáp án thi thử Quảng Trị 2009

I. PHẦN CHUNG CHO CẢ HAI BAN (5 điểm):

Câu 1: (2 điểm):
Anh (chị) hãy giải thích ngắn gọn ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn.

Câu 2: (3 điểm)
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ có viết: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 từ) nói lên suy nghĩ của anh (chị) về quan niệm sống nêu trên.

II. PHẦN RIÊNG DÀNH CHO TỪNG BẠN (5 điểm):

Thí sinh chỉ được chọn một trong hai câu 3a hoặc 3b:

Câu 3a: (Dành cho thí sinh học chương trình Cơ bản):
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

Câu 3b: (Dành cho thí sinh học chương trình Nâng cao):
Phân tích màu sắc Nam Bộ được thể hiện trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

--------------Hết.--------------

ĐÁP ÁNA. YÊU CẦU CHUNG:
1. Học sinh xác định đúng yêu cầu của đề bài, phần II trong đề phải chọn đúng câu phù hợp với chương trình mình học, không được làm cả 2 câu.
2. Nắm vững phương pháp làm bài, hành văn lưu loát, không vi phạm nhiều lỗi chính tả và diễn đạt.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ:
Ngoài những yêu cầu chung nêu trên, ở từng câu cụ thể, học sinh phải nêu được các ý sau:
Câu 1: Thuốc là một nhan đề mang tính đa nghĩa:
a. Nghĩ thông thường: Đó là phương thuốc chữa bệnh lao
b. Nghĩa tượng trưng:
- Phương thuốc chữa bệnh u mê, lạc hậu, vô cảm của người dân Trung Hoa đương thời.
- Phương thuốc chữa bệnh xa rời quần chúng của người một số cán bộ Cách mạng đương thời.
Biểu điểm:
- Ý a: 0,5 điểm; - Ý b: mỗi ý nhỏ o,75 điểm
(Chỉ cho điểm tối đa khi học sinh trình bày rõ ràng, mạch lạc)

Câu 2:
Yêu cầu về nội dung:
a. Học sinh hiểu được thực chất câu nói của Lưu Quang Vũ: Con người phải sống thật với chính mình.
b. Lí giải được tại sao con người phải sống thật với chính mình (con người là một thực thể thống nhất giữa hai mặt tinh thần và thể xác. Nếu không sống thực với mình thì con người sẽ đau khổ và sẽ gây ra đau khổ, tai hoạ cho những người xung quanh...)
c. Biết liên hệ với thực tế cuộc sống hiện nay để chỉ ra tác hại của cách sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Từ đó rút ra bài học cho bản thân: Hãy trung thực với bản thân, đừng tự lừa dối mình và lừa dối những người xung quanh.
Yêu cầu về dựng đoạn:
a. Viết đúng dung lượng yêu cầu: khoảng trên 200 từ.
b. Đoạn văn mạch lạc, thể hiện được tính liên kết và hướng kết cấu.
* Biểu điểm: Giáo viên chú ý kết hợp cả 2 yêu cầu trên để chấm:
- Điểm 3: Học sinh xác định đúng trọng tâm, biết cách làm một bài nghị luận xã hội; đảm bảo được các ý nêu trên; văn viết chặt chẽ, mạch lạc.
- Điểm 1-2: Học sinh nêu được 2/3 số ý. Văn viết tương đối mạch lạc; không sai nhiều lỗi chính tả và diễn đạt.
- Điểm dưới 1: Chỉ nêu được ½ số ý nêu trên; sai nhiều lỗi chính tả và diễn đạt.
- Điểm 0: Lạc đề.

Câu 3a: Ngoài yêu cầu nêu ở mục I, học sinh cần nêu được các ý sau:
a. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho nhiều sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975: những băn khoăn, trăn trở về thân phận, phẩm giá con người thời hậu chiến.
b. Người đàn bà hàng chài là người phụ nữ lao động có ngoại hình thô kệch, xấu xí mang đậm dấu ấn của cuộc sống lam lũ, vất vả (Dẫn chứng)
c. Đó là người phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu.
d. Đó là người có tấm lòng hi sinh và tình yêu thương vô bờ bến đối với con, có sự am hiểu sâu sắc về lẽ lời (dẫn chứng)...
e. Người đàn bà không tên này có ý nghĩa điển hình cho rất nhiều người phụ nữ cùng cảnh ngộ. Qua nhân vật ta thấy được sự yêu thương và nỗi lo âu khắc khoải của nhà văn đối với con người.
* Biểu điểm:- Điểm tối đa khi học sinh đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, khuyến khích những bài viết sáng tạo.
- Điểm 3-4: Học sinh có thể thiếu một vài ý nhỏ (3a, 3e), văn viết tương đối mạch lạc, chặt chẽ.
- Điểm dưới 2: Chỉ đáp ứng được ½ số ý. Còn mắc khá nhiều lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Lạc đề.

Câu 3b: Học sinh chỉ rõ các phương diện thể hiện rõ chất Nam Bộ trong văn Nguyễn Thi:
a. Tái hiện một cách chân thực cuộc chiến đấu ác liệt của đồng bào miền Nam trong chống Mỹ.
b. Khắc hoạ đậm nét tính cách của người miền Nam: Bộc trực, thẳng thắn, yêu thương, căm thù giặc, gắn bóm tự hào về truyền thống gia đình...
c. Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm sắc thái miền Nam.
* Biểu điểm:
- Điểm tối đa khi học sinh đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, khuyến khích những bài viết sáng tạo.
- Điểm 3-4: Học sinh có thể thiếu một ý nào đó, văn viết tương đối mạch lạc, chặt chẽ.
- Điểm dưới 2: Chỉ đáp ứng được ½ số ý. Còn mắc khá nhiều lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Lạc đề.

Đề-Đáp án thi thử Đồng Tháp 2009

PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu 1 : (2,0 điểm)
Anh/chị hãy xác định vấn đề cốt lõi mà bản Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003 của Cô – phi An – nan hướng tới?

Câu 2 : (3,0 điểm)
Viết một đoạn văn, trình bày suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng “nghiện” in – tơ - nét trong nhiều bạn trẻ hiện nay.

PHẦN RIÊNG CHO THÍ SINH HỌC THEO TỪNG CHƯƠNG TRÌNH

Thí sinh học theo chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó (câu 3a hoặc câu 3b).

Câu 3a. (Dành cho thí sinh học chương trình Chuẩn) : (5, 0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về giá trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (giai đoạn Mị ở Hồng Ngài).

Câu 3b. (Dành cho thí sinh học chương trình Nâng cao) : (5,0 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về những xung đột trong Hồi 7, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.

…………Hết…………

ĐÁP ÁN VÀ THANG ĐIỂM
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu 1 (2,0 điểm)
Yêu cầu về kiến thức : Thí sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau song cần nêu được các ý sau :
Chúng ta phải có những nỗ lực cao nhất để ngăn chặn đại dịch AIDS.
Chúng ta có thể làm được điều này trên cơ sở tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương và ý thức tự bảo vệ cuộc sống của mình.
Cách cho điểm
Ý 1 : 1,0 điểm
Ý 2 : 1,0 điểm
Lưu ý : Chỉ cho điểm tối đa khi thí sinh diễn đạt rõ ràng.

Câu 2 (3,0 điểm)
a) Yêu cầu
- Chỉ viết một đoạn văn.
- Phải viết đúng kiểu văn bản nghị luận.
- Phải nghị luận đúng vấn đề nghiện in – tơ – net trong nhiều bạn trẻ hiện nay. Sau đây là một số ý tham khảo ; thí sinh ít nhất phải nêu được một luận điểm và tìm các luận cứ, kết hợp với các thao tác lập luận để nghị luận :
+ Nêu hiện tượng : hiện nay có nhiều bạn trẻ nghiện in – tơ – net.
+ Nguyên nhân.
+ Phê phán những tác hại của hiện tượng ; nêu những tấm gương học tốt và biết sử dụng in – tơ – net vào việc có ích, phù hợp.
b) Cách cho điểm
Giám khảo căn cứ vào từng bài thi cụ thể để chấm điểm (trừ điểm những bài : viết hơn một đoạn văn, viết không đúng kiểu văn bản nghị luận…) ; chấm điểm cao cho những bài viết độc đáo, sáng tạo…

PHẦN RIÊNG CHO THÍ SINH HỌC THEO TỪNG CHƯƠNG TRÌNH
Câu 3a. (5,0 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
- Biết cách làm bài nghị luận văn học. Kết cấu bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
- Vận dụng khả năng đọc hiểu để làm sáng tỏ giá trị hiện thực của truyện.
Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở những hiểu biết về tác phẩm, thí sinh có thể trình bày vấn đề theo nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số ý chính cần đạt :
Bộ mặt của giai cấp thống trị thể hiện tập trung qua hai nhân vật thống lí Pá Tra và A Sử.
Bức tranh về đời sống của người dân lao động bị áp bức qua hai nhân vật Mị và A Phủ.

Cách cho điểm- Điểm 4 - 5 : Đáp ứng được các yêu cầu trên ; thể hiện được những suy nghĩ sáng tạo của người viết. Có thể có một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2 - 3 : Giải quyết khoảng một nửa yêu cầu đặt ra, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1 : Phân tích quá sơ sài, diễn đạt còn yếu.
- Điểm 0 : Hoàn toàn lạc đề.

Câu 3b. (5,0 điểm)
a) Yêu cầu về kĩ năng
- Biết cách làm bài nghị luận văn học. Kết cấu bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
- Vận dụng khả năng đọc hiểu để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng cơ bản của Hồi kịch (cũng là của vở kịch) thông qua việc tìm hiểu các xung đột.
b) Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải làm sáng tỏ các xung đột trong Hồi 7. Sau đây là một số ý chính cần đạt :
Xung đột giữa hồn Trương Ba với xác anh Hàng thịt : cuộc đấu tranh trong bản thân con người để chống lại tác động xấu của thể xác làm tha hóa linh hồn.
Xung đột giữa hồn Trương Ba với những người thân trong gia đình : hậu quả tất yếu của việc sống không có bản lĩnh và sống giả dối.
Bi kịch của hồn Trương Ba : sống mà không được là chính mình.
Sự giải quyết mâu thuẫn của hồn Trương Ba (chọn cái chết) : vạch ra con đường sống đúng đắn và cao cả cho con người : Hãy sống chân thật với chính con người của mình, sống vì mọi người, vì sự tốt đẹp của con người.

Cách cho điểmĐiểm 4 - 5 : Đáp ứng được các yêu cầu trên ; thể hiện được những suy nghĩ sáng tạo của người viết. Có thể có một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
Điểm 2 - 3 : Giải quyết khoảng một nửa yêu cầu đặt ra, còn mắc một số lõi diễn đạt.
Điểm 1 : Phân tích quá sơ sài, diễn đạt còn yếu.
Điểm 0 : Hoàn toàn lạc đề.
Đề thi thử Hà Nội 2009THỜI GIAN:150 PHÚT (Không kể thời gian giao đề)

I. Phần chung: (5 điểm)
Câu 1: (2 điểm)
Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của Tố Hữu.
Câu 2: (3 điểm)
Em ơi Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
(Đất Nước – Trích Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm,
Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, 2008)
Dựa vào những câu thơ trên, anh (chị) hãy phát biểu trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) ý kiến cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với đất nước.
II. Phần riêng: (5 điểm)
Câu 3a: Theo chương trình Chuẩn (5 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân nghèo khổ này.
Câu 3b: Theo chương trình Nâng cao (5 điểm)
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về nhân vật bà Hiền trong truyện Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.

ĐÁP ÁN

I. Phần chung: (5 điểm)
Câu 1: (2 điểm)
a) Yêu cầu về kiến thức:
Cần nêu bật được các ý:
- Về nội dung, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị:
+ Thơ Tố Hữu tập trung biểu hiện những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, nói cách khác là hướng tới cái ta chung.
+ Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi.
+ Giọng thơ mang đậm chất tâm tình, ngọt ngào.
- Về nghệ thuật biểu hiện, thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà:
+ Thể thơ đa dạng; đặc biệt thành công ở thể thơ truyền thống.
+ Ngôn ngữ thơ: thường dùng cách nói dân gian, phát huy tính nhạc trong thơ.
b) Cách cho điểm:
- Điểm 2: Đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên, có thể còn mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 1: Trình bày được một nửa yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu 2: (3 điểm)
a) Yêu cầu về kỹ năng:
Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bài làm có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý sau:
- Đất nước kết tinh, hoá thân trong mỗi con người; con người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
- Suy nghĩ của cá nhân về lời nhắn nhủ trong những câu thơ trên. Cần nêu ý kiến riêng của bản thân, có sự lý giải khác nhau nhưng cần phải logíc, thuyết phục.
c) Cách cho điểm:
- Điểm 3: Đáp ứng được các yêu cầu trên, có thể còn mắc một vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 2: Trình bày được nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi về diễn đạt.
- Điểm 1: Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
II. Phần riêng: (5 điểm)
Câu 3a. Theo chương trình Chuẩn: (5 điểm)
a) Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học phân tích nhân vật trong tác phẩm văn xuôi, diễn đạt lưu loát, kết cấu bài viết chặt chẽ, không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở nắm vững tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thiên truyện, thí sinh có thể triển khai theo nhiều hướng khác nhau nhưng cần nêu được những nội dung cơ bản sau:
- Những biểu hiện tâm trạng của bà cụ Tứ khi thấy con trai mình có vợ: vừa mừng, vừa lo, mà sự lo lắng thì nhiều hơn cả vì bà cụ đã trải đời, đã biết thế nào là cái đói, cái nghèo.
- Cùng với cái mừng, cái lo cũng là cái tủi với tâm trạng vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
- Sự cảm thgông, tấm lòng thương xót của bà cụ dành cho người con dâu mới trong cảnh tủi cực.
- Tâm trạng bà mẹ: phức tạp, đầy mâu thuẫn,...
- Nghệ thuật thể hiện tâm trạng: chân thực, tinh tế.
- Tấm lòng nhân hậu, niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai ở người mẹ,...
c) Cách cho điểm:
- Điểm 5: Đáp ứng được các yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3: Trình bày được nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Phân tích quá sơ sài, diễn đạt còn yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu 3b. Theo chương trình Nâng cao: (5 điểm)
a) Yêu cầu về kĩ năng:
Biết làm bài văn nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc-hiểu để phân tích nhân vật văn học. Kết cấu bài viết chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Cần nêu được một số nội dung cơ bản sau:
- Bà Hiền là một người phụ nữ Hà thành truyền thống được khẳng định trước hết ở bản lĩnh của một con người luôn dám là mình, luôn quyết định được những công việc hệ trọng của bản thân (lấy chồng, sinh con,...)
- Là hiện thân của nét văn hoá truyền thống của đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến (thể hiện phong thái, cách sống, ứng xử trong cuộc sống hằng ngày)
- Nhận xét khái quát về nhân vật.
- Bằng bút pháp hiện thực, tác giả xây dựng nhân vật sống động, phù hợp với thực tế.
c) Cách cho điểm:
- Điểm 5: Đáp ứng được các yêu cầu trên, có thể mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
- Điểm 3: Trình bày được nửa các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi diễn đạt.
- Điểm 1: Phân tích quá sơ sài, diễn đạt còn yếu.
- Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.

Đề thi thử Ngữ Văn 2008-2009

Đề thi thử 2008-2009 TPHCM MÔN : NGỮ VĂN

Thời gian làm bài : 150 phút

( không kể thời gian giao đề)

********





I/ PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH ( 5,0 điểm)



Câu 1 (2 điểm) :

Nêu vắn tắt những chặng đường thơ của Tố Hữu.



Câu 2 (3 điểm) :

Viết một văn bản nghị luận ngắn( khoảng 01 trang giấy thi)

bàn về tình trạng bạo lực học đường hiện nay.



II/ PHẦN RIÊNG (5.0 điểm):

Thí sinh học chương trình nào thì làm câu dành riêng cho chương trình đó.



Câu 3a (5 điểm): Dành cho thí sinh học chương trình Chuẩn

Phân tích đoạn đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

G ục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

N hớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

( Trích “ Tây Tiến”, Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, tập 1)



Câu 3b (5 điểm ): Dành cho thí sinh học chương trình Nâng cao

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm mùa xuân “ Mị muốn đi chơi” … và trong cảnh cô cắt dây trói cứu A Phủ. Nhận xét về sức sống tiềm tàng của Mị qua hai cảnh đó.

( Trích “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 2)



HẾT





Họ và tên thí sinh:.........................................................

Số báo danh: ..........................





SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM HỌC 2008- 2009

MÔN : NGỮ VĂN



HƯỚNG DẪN CHẤM

( Hướng dẫn chấm gồm 03 trang)

I. Hướng dẫn chung

- Đề bài gồm 3 câu, theo cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT: câu 1 kiểm tra kiến thức văn học; câu 2 là bài nghị luận xã hội; câu 3 là bài nghị luận văn học. Câu 1 chủ yếu yêu cầu tái hiện kiến thức nhưng cũng có yêu cầu về diễn đạt và lập luận. Chỉ những HS diễn đạt trôi chảy, đúng chính tả, ngữ pháp mới được điểm tối đa. Câu 2 và câu 3 là bài làm văn, tích hợp kiểm tra cả kiến thức xã hội, kiến thức văn học và kĩ năng diễn đạt, kĩ năng lập luận của HS.

- Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm một cách máy móc.

- Do sử dụng đồng thời hai bộ sách giáo khoa nên giám khảo cần linh hoạt trong việc vận dụng đáp án. Không buộc học sinh phải trả lời đúng theo cách diễn đạt của bộ sách nào.

- Nên sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí; không yêu cầu quá cao đối với mức điểm 9, 10; khuyến khích những bài làm có ý riêng, sáng tạo, văn viết có cảm xúc…

- Chỉ làm tròn điểm toàn bài (lẻ 0,25 làm tròn thành 0,5; lẻ 0,75 làm tròn thành 1,0)

II. Đáp án và thang điểm



A. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH



Câu 1: (2 điểm) :

1/ Yêu cầu về kiến thức: học sinh có thể trình bày khác nhau song cần có các ý sau:

- Các chặng đường thơ Tố Hữu cũng là những chặng đường cách mạng của dân tộc, Tố Hữu có 7 tập thơ, chia thành 5 chặng đường sáng tác.

- Tập Từ ấy ( 1937-1946), gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng.

- Tập Việt Bắc (1947-1954) là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.

- TậpGió lộng ( 1955-1961) là tiếng hát ca ngợi cách mạng , ca ngợi công cuộc xây dựng CNXH trên miền Bắc và nỗi đau khi nghĩ đến miền Nam…

- Tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977) là bản anh hùng ca chống Mỹ và tự hào về đất nước, về cách mạng …

- Tập Một tiếng đờn ( 1992) và Ta với ta (1999) là những chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người sau bao thăng trầm biến động của cách mạng, của thế giới…

2/ Cho điểm

- Điểm 2,0: Đáp ứng các yêu cầu về nội dung. Diễn đạt tốt. Chấp nhận một vài lỗi nhỏ.

- Điểm 1,0: Trình bày được khoảng nửa số ý. Còn mắc một số lỗi chính tả, ngữ pháp.

- Điểm 0,0: Chỉ viết vài câu rời rạc, không rõ nội dung, không làm bài.

Lưu ý: Đáp án đưa ra 6 ý nhỏ; bài làm trọn vẹn 5 ý có thể cho tròn 2.0 điểm

Giám khảo xác định các mức điểm cụ thể. Không yêu cầu học sinh viết đúng các cụm từ dùng trong đáp án, miễn là học sinh nắm được nội dung tác phẩm. Sai lỗi chính tả, ngữ pháp tuỳ mức độ trừ từ 0.25đ đến 0.5đ…)

Câu 2 : (3 điểm)

a/Yêu cầu :

Về nội dung:

- Học sinh có thể giới thiệu vấn đề từ nhiều góc độ, nhưng phải nêu được vấn đề tình trạng bạo lực học đường đang trở nên phổ biến khiến dư luận xã hội quan tâm, báo động.

- Giải thích khái niệm bạo lực học đường : cách úng xử, giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh trong học tập, sinh hoạt trong nhà trường giữa học sinh bằng bạo lực…Học sinh có thể nêu ví dụ làm rõ.

- Nguyên nhân của tình trạng trên: việc giáo dục đạo đức học sinh, thanh thiếu niên ở nhiều gia đình, trong nhà trường bị buông lỏng; nhiều giá trị đạo đức bị xói mòn trong cơ chế kinh tế thị trường; tình trạng bế tắc, mất phương hướng trong một bộ phận giới trẻ… Nêu một vài dẫn chứng làm rõ lập luận.

- Cách giải quyết tình trạng bạo lực học đường.

- Suy nghĩ của bản thân trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong đời sống…

Về kĩ năng:

- Học sinh nắm vững kĩ năng làm bài văn nghị luận về các vấn đề xã hội, biết nêu vấn đề, giải thích, chứng minh, đánh giá vấn đề; từ đó rút ra bài học cho bản thân.

- Bài làm có bố cục rõ ràng ; diễn đạt mạch lạc ; ít mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.

b/Cho điểm:

- Điểm 3: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Văn viết trôi chảy. Chấp nhận một vài lỗi nhỏ.

- Điểm 2: Đáp ứng yêu cầu ở mức khá; biết tìm dẫn chứng làm rõ lập luận.Văn viết trôi chảy; có thể mắc 3- lỗi chính tả, ngữ pháp .

- Điểm 1: Không rõ lập luận, không biết giải thích khái niệm, giải thích không chính xác; không có dẫn chứng; bài làm sơ sài,; có trên 4 lỗi chính tả, ngữ pháp.

- Điểm 00 : Để giấy trắng hoặc chỉ viết vài dòng không rõ ý.



B/ PHẦN RIÊNG:

Câu 3a: Dành cho thí sinh học chương trình Chuẩn

a/ Yêu cầu

Về nội dung :

Bài làm cần có các nội dung chính sau :

- Giới thiệu được những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời, chủ đề của tác phẩm. Giới thiệu đoạn thơ cần phân tích.

- Phân tích cảnh thiên nhiên Tây Bắc và Thượng Lào hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội và những cuộc hành quân đầy gian khổ nhưng rất đáng tự hào của đoàn quân Tây Tiến.

- Cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã được gợi lên bởi những địa danh xa lạ : Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu; những hình ảnh dị thường; những từ ngữ giàu tính gợi hình; những câu thơ nhiều thanh trắc đọc lên nghe nhọc nhằn vất vả như leo núi: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”.

Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không chỉ hiểm trở vì đèo cao thác sâu mà còn nguy hiểm vì lắm thú dữ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

- Tuy nhiên, giữa vùng rừng núi xa xôi hiểm trở ấy vẫn có những thung lũng trải rộng, những bản làng êm đềm Những âm hưởng tạo nên bởi các từ : ơi, chơi vơi, hơi, khơi..., những câu nhiều thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”; Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”..đem lại những cảm giác êm đềm và gợi lên những vùng không gian rộng, những bản làng thanh bình…

- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong những cuộc hành quân liên miên nơi núi rừng, dù chỉ thấp thoáng nhưng chân thực, cảm động. Đó là “đoàn quân mỏi”, nhưng oai hùng. Có những chiến sĩ kiệt sức, “ gục lên súng mũ” nhưng cái chết của họ nhẹ nhàng như giấc ngủ “ bỏ quên đời” vì họ tình nguyện ra đi và hiến thân cho tổ quốc.

- Cuối đoạn thơ, hình ảnh “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ” gợi lên một nét đẹp trong tâm hồn tâm hồn tinh tế lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến

- Học sinh cần chỉ ra vài nét tiêu biểu về nghệ thuật trong đoạn thơ và bài thơ: bút pháp lãng mạn; hình ảnh sống động, độc đáo, từ ngữ chính xác giàu chất tạo hình. Giọng thơ linh hoạt: khi hào hùng rắn rỏi, khi uyển chuyển mềm mại, tinh tế…

Về kĩ năng :

- Học sinh nắm vững kĩ năng làm bài văn nghị luận phân tích một đoạn thơ

- Bài làm có bố cục rõ ràng ; diễn đạt mạch lạc ; ít mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.

b/ Biểu điểm :

- Điểm 5: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên ; kĩ năng giảng bình tốt, văn viết trôi chảy, có cảm xúc ; không mắc nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp (1-2 lỗi).

- Điểm 4 : Đáp ứng yêu cầu ở mức khá; giải thích từ ngữ, hình ảnh hợp lí, văn viết khá trôi chảy; có thể mắc 3-4 lỗi chính tả, ngữ pháp .

- Điểm 3 : Hiểu nội dung đoạn thơ. Trình bày được khoảng nửa số ý. Văn viết chưa thật trôi chảy. Khá nhiều lỗi ngữ pháp, chính tả.

- Điểm 2 : Không nắm vững nội dung đoạn thơ, giảng bình từ ngữ, hình ảnh thơ sơ sài, thiếu nhiều ý ; mắc nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.

- Điểm 1 : Không nắm vững tác giả, tác phẩm; hiểu sai nội dung đoạn thơ; không biết giảng bình từ ngữ, hình ảnh thơ…Bài viết có nhiều lỗi các loại.

- Điểm 0.0: Để giấy trắng hoặc chỉ viết vài dòng không rõ ý.

Câu 3b (5 điểm) : Dành cho thí sinh học chương trình Nâng cao

. a/ Yêu cầu:

Về nội dung:

Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng phải có các nội dung cơ bản sau:

- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; giới thiệu nhân vật…

- Nêu vắn tắt diễn biến tâm trạng Mị từ lúc về làm con dâu trừ nợ nhà thống lí (“ đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” và định ăn lá ngón tự tử. Thương cha, Mị không đành lòng chết, phải quay về sống ở nhà thống lí. Mị như cái xác không hồn. “Ngày càng không nói, lúc nào cũng cúi đầu và mặt buồn rười rượi, sống lặng lẽ cô đơn lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị coi mình như con trâu con ngựa, chỉ biết ăn cỏ và đi làm…)

- Bề ngoài cam chịu nhưng sức sống của Mị vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần có điều kiện nó sẽ bùng lên mạnh mẽ.

- Trong đêm mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình đã làm Mị thiết tha bổi hổi, đã đánh thức tâm hồn Mị, làm trỗi dậy lòng ham sống, khát vọng tự do, tình yêu, hạnh phúc. Từ ý thức đến hành động, Mị đã uống rượu và uống ừng ực từng bát. Mị muốn đi chơi và đã chuẩn bị đi chơi. Mị, quấn lại tóc, rút áo và lấy váy hoa. Khi bị A Sử trói đứng vào cột, Mị vẫn còn sống với những khao khát cháy bỏng, vẫn dõi theo những cuộc chơi, những đám chơi, vẫn bồi hồi theo tiếng sáo… Rõ ràng ở Mị vẫn muốn sống, sức sống ở Mị vẫn mãnh liệt.

- Sức sống trong Mị càng mãnh liệt qua chi tiết Mị cởi trói giải thoát cho A Phủ và cũng là cởi trói thoát đời mình.

Ban đầu Mị dửng dưng trước cảnh A Phủ bị trói đứng mấy ngày mấy đêm "A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nhưng trong ánh lửa bập bùng trong đêm, Mị trông thấy được một dòng của A Phủ, Mị chợt nhớ nỗi đau đời mình. Thương thân rồi thương người; rồi căm thù "Chúng nó thật độc ác”. “Người kia việc gì phải chết thế”.

Sự đồng cảm, lòng căm thù, cũng như nhận thức được sự bất công, vô lí đã thắng mọi sự sợ hãi dẫn đến hành động táo bạo, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Đúng lúc ấy khao khát sống bừng lên trong Mị, Mị chạy theo, cùng trốn đi vơí A Phủ.

Rõ ràng trong bất hạnh, người lao động vẫn luôn có sức sống bền bỉ, một khát vọng hạnh phúc lớn lao, hễ gặp cơ hội thuận lợi sức sống đó, khát vọng đó lại trỗi dậy mạnh mẽ. Sau cùng, khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .

Về kỹ năng:

- Biết làm bài văn nghị luận văn học; kiểu bài phân tích một nhân vật văn học trong thể loại truyện ngắn.

- Bài làm có kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt tốt. Không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp

b/ Cho điểm:

- Điểm 5 : Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nêu trên. Văn viết có cảm xúc. Diễn đạt rõ ràng. Có thể còn một vài sai sót nhưng không đáng kể.

- Điểm 4: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên. Hướng triển khai ý hợp lý. Có thể còn vài ba sai sót nhỏ.

- Điểm 3 : Nắm được nội dung tác phẩm, cuộc đời nhân vật. Trình bày được khoảng nửa số ý, ít dẫn chứng. Văn viết chưa thật trôi chảy. Khá nhiều lỗi ngữ pháp, chính tả.

- Điểm 2: Chưa hiểu kỹ đề, bài viết quá sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt. Bài làm không rõ lập luận. Có quá nhiều lỗi nhỏ.

- Điểm 1 : Học sinh không nắm được tác phẩm, sai nhiều kiến thức cơ bản, bài làm không hoàn chỉnh; văn chưa thành câu.

- Điểm 0: Học sinh không làm bài hoặc chỉ viết một vài câu rời rạc, không thành ý

Sức sống tiềm tàng trong Mỵ trong đêm tình mùa xua6m và đêm cởi trói cho A Phủ

Đề thi thử 2008-2009
Câu 3b (5 điểm) : Dành cho thí sinh học chương trình Nâng cao


. a/ Yêu cầu:

Về nội dung:

Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng phải có các nội dung cơ bản sau:

- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; giới thiệu nhân vật…

- Nêu vắn tắt diễn biến tâm trạng Mị từ lúc về làm con dâu trừ nợ nhà thống lí (“ đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” và định ăn lá ngón tự tử. Thương cha, Mị không đành lòng chết, phải quay về sống ở nhà thống lí. Mị như cái xác không hồn. “Ngày càng không nói, lúc nào cũng cúi đầu và mặt buồn rười rượi, sống lặng lẽ cô đơn lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị coi mình như con trâu con ngựa, chỉ biết ăn cỏ và đi làm…)

- Bề ngoài cam chịu nhưng sức sống của Mị vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần có điều kiện nó sẽ bùng lên mạnh mẽ.

- Trong đêm mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình đã làm Mị thiết tha bổi hổi, đã đánh thức tâm hồn Mị, làm trỗi dậy lòng ham sống, khát vọng tự do, tình yêu, hạnh phúc. Từ ý thức đến hành động, Mị đã uống rượu và uống ừng ực từng bát. Mị muốn đi chơi và đã chuẩn bị đi chơi. Mị, quấn lại tóc, rút áo và lấy váy hoa. Khi bị A Sử trói đứng vào cột, Mị vẫn còn sống với những khao khát cháy bỏng, vẫn dõi theo những cuộc chơi, những đám chơi, vẫn bồi hồi theo tiếng sáo… Rõ ràng ở Mị vẫn muốn sống, sức sống ở Mị vẫn mãnh liệt.

- Sức sống trong Mị càng mãnh liệt qua chi tiết Mị cởi trói giải thoát cho A Phủ và cũng là cởi trói thoát đời mình.

Ban đầu Mị dửng dưng trước cảnh A Phủ bị trói đứng mấy ngày mấy đêm "A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nhưng trong ánh lửa bập bùng trong đêm, Mị trông thấy được một dòng của A Phủ, Mị chợt nhớ nỗi đau đời mình. Thương thân rồi thương người; rồi căm thù "Chúng nó thật độc ác”. “Người kia việc gì phải chết thế”.

Sự đồng cảm, lòng căm thù, cũng như nhận thức được sự bất công, vô lí đã thắng mọi sự sợ hãi dẫn đến hành động táo bạo, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Đúng lúc ấy khao khát sống bừng lên trong Mị, Mị chạy theo, cùng trốn đi vơí A Phủ.

Rõ ràng trong bất hạnh, người lao động vẫn luôn có sức sống bền bỉ, một khát vọng hạnh phúc lớn lao, hễ gặp cơ hội thuận lợi sức sống đó, khát vọng đó lại trỗi dậy mạnh mẽ. Sau cùng, khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .

Về kỹ năng:

- Biết làm bài văn nghị luận văn học; kiểu bài phân tích một nhân vật văn học trong thể loại truyện ngắn.

- Bài làm có kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt tốt. Không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp

b/ Cho điểm:

- Điểm 5 : Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nêu trên. Văn viết có cảm xúc. Diễn đạt rõ ràng. Có thể còn một vài sai sót nhưng không đáng kể.

- Điểm 4: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên. Hướng triển khai ý hợp lý. Có thể còn vài ba sai sót nhỏ.

- Điểm 3 : Nắm được nội dung tác phẩm, cuộc đời nhân vật. Trình bày được khoảng nửa số ý, ít dẫn chứng. Văn viết chưa thật trôi chảy. Khá nhiều lỗi ngữ pháp, chính tả.

- Điểm 2: Chưa hiểu kỹ đề, bài viết quá sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt. Bài làm không rõ lập luận. Có quá nhiều lỗi nhỏ.

- Điểm 1 : Học sinh không nắm được tác phẩm, sai nhiều kiến thức cơ bản, bài làm không hoàn chỉnh; văn chưa thành câu.

- Điểm 0: Học sinh không làm bài hoặc chỉ viết một vài câu rời rạc, không thành ý

Khổ 1 bài Tây Tiến

Câu 3a (5 điểm): Dành cho thí sinh học chương trình Chuẩn

Phân tích đoạn đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
N hớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
( Trích “ Tây Tiến”, Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, tập 1)

Đáp án
a/ Yêu cầu

Về nội dung :

Bài làm cần có các nội dung chính sau :

- Giới thiệu được những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời, chủ đề của tác phẩm. Giới thiệu đoạn thơ cần phân tích.

- Phân tích cảnh thiên nhiên Tây Bắc và Thượng Lào hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội và những cuộc hành quân đầy gian khổ nhưng rất đáng tự hào của đoàn quân Tây Tiến.

- Cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã được gợi lên bởi những địa danh xa lạ : Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu; những hình ảnh dị thường; những từ ngữ giàu tính gợi hình; những câu thơ nhiều thanh trắc đọc lên nghe nhọc nhằn vất vả như leo núi: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”.

Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không chỉ hiểm trở vì đèo cao thác sâu mà còn nguy hiểm vì lắm thú dữ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

- Tuy nhiên, giữa vùng rừng núi xa xôi hiểm trở ấy vẫn có những thung lũng trải rộng, những bản làng êm đềm Những âm hưởng tạo nên bởi các từ : ơi, chơi vơi, hơi, khơi..., những câu nhiều thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”; Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”..đem lại những cảm giác êm đềm và gợi lên những vùng không gian rộng, những bản làng thanh bình…

- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong những cuộc hành quân liên miên nơi núi rừng, dù chỉ thấp thoáng nhưng chân thực, cảm động. Đó là “đoàn quân mỏi”, nhưng oai hùng. Có những chiến sĩ kiệt sức, “ gục lên súng mũ” nhưng cái chết của họ nhẹ nhàng như giấc ngủ “ bỏ quên đời” vì họ tình nguyện ra đi và hiến thân cho tổ quốc.

- Cuối đoạn thơ, hình ảnh “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ” gợi lên một nét đẹp trong tâm hồn tâm hồn tinh tế lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến

- Học sinh cần chỉ ra vài nét tiêu biểu về nghệ thuật trong đoạn thơ và bài thơ: bút pháp lãng mạn; hình ảnh sống động, độc đáo, từ ngữ chính xác giàu chất tạo hình. Giọng thơ linh hoạt: khi hào hùng rắn rỏi, khi uyển chuyển mềm mại, tinh tế…

Về kĩ năng :

- Học sinh nắm vững kĩ năng làm bài văn nghị luận phân tích một đoạn thơ

- Bài làm có bố cục rõ ràng ; diễn đạt mạch lạc ; ít mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.

b/ Biểu điểm :

- Điểm 5: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên ; kĩ năng giảng bình tốt, văn viết trôi chảy, có cảm xúc ; không mắc nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp (1-2 lỗi).

- Điểm 4 : Đáp ứng yêu cầu ở mức khá; giải thích từ ngữ, hình ảnh hợp lí, văn viết khá trôi chảy; có thể mắc 3-4 lỗi chính tả, ngữ pháp .

- Điểm 3 : Hiểu nội dung đoạn thơ. Trình bày được khoảng nửa số ý. Văn viết chưa thật trôi chảy. Khá nhiều lỗi ngữ pháp, chính tả.

- Điểm 2 : Không nắm vững nội dung đoạn thơ, giảng bình từ ngữ, hình ảnh thơ sơ sài, thiếu nhiều ý ; mắc nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.

- Điểm 1 : Không nắm vững tác giả, tác phẩm; hiểu sai nội dung đoạn thơ; không biết giảng bình từ ngữ, hình ảnh thơ…Bài viết có nhiều lỗi các loại.

- Điểm 0.0: Để giấy trắng hoặc chỉ viết vài dòng không rõ ý.

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2009

KTCB Ai đã đặt tên cho dòng sông

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I.TÌM HIỂU CHUNG:
1) Tác giả:
-HPNT sinh 1937 tại Huế, là trí thức yêu nước, tham gia phong trào sinh viên đấu tranh chống Mỹ Ngụy ở Thừa Thiên Huế.
-Nhà văn chuyên viết về bút kí với đề tài cảnh sắc con người khắp mọi miền đất nước nhưng ấn tượng nhất vẫn là Huế với các TP: Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông…
-Văn của HPNT là sự kết hợp yếu tố trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…Lối hành văn hướng nội, súc tích mới mẻ và tài hoa.
-HPNT được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-nghệ thuật 2007.

2) Hoàn cảnh sáng tác:
-“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút kí xuất sắc, viết tại Huế 01/04/1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có ba phần, đọan trích dẫn ở phần thứ nhất của TP.
-Đoạn trích: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là đọan văn xuôi súc tích đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

3)Tóm tắt tác phẩm:
Mở đầu TP h/ảnh sông Hương gắn liền với h/ảnh cây hồng và những h/ảnh trong truyện Kiều của Nguyễn Du.Sau đó dòng sông hiện ra từ lúc ở rừng già hoang sơ, lúc ở vùng đồi núi hùng vĩ, lúc ở ngoại ô đến lúc uốn lượn mềm mại vào thành phố… Dưới nhiều góc nhìn khác nhau nhu địa lí, lịch sử, văn hóa, thơ ca…, Hình ảnh sông Hương hiện ra thật thơ mộng trữ tình.
Kết thúc thiên tùy bút t/giả trở lại với nhan đề TP: “AĐĐTDS” và trả lời câu hỏi bằng 1 huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư “Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đỗ xuống dòng sông, để làn nước thơm tho mãi”… “Con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”
Đoạn trích bài bút kí “AĐĐTCDS” là đoạn văn xuôi súc tích thấm đẫm chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của TP là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú.Qua đoạn trích ta thấy được tình yêu, niềm tự hào về dòng sông Hương biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên huyền ảo, đa dạng và gắn bó với con người Việt Nam. Đoạn trích thể hiện lòng yêu nước và ngòi bút tài hoa của 1 trí thức có khả năng liên tưởng mạnh mẽ, tư duy khoáng đạt, ngôn ngữ trong sáng giản dị.

5) Bố cục:chia 3 đoạn
-Đoạn 1: Từ đầu ….Núi Kim Phụng→cảnh quan thiên nhiên của sông Hương.
-Đoạn 2: T/theo…quê hương xứ sở→Vẻ đẹp sông Hương khám phá dưới góc độ văn hóa.
-Đoạn 3: phần còn lại→Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử.

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN
Bằng tình yêu và lòng tự hào tha thiết lắng sâu của t/giả dành cho sông Hương, cho xứ Huế. Tác giả sử dụng triệt để tiềm năng văn hóa và vốn từ phong phú của mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp của Huế tập trung ở dòng sông Hương:

1)Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên:
-Khác với nhiều con sông khác “Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất”→nghĩa là sông Hương gắn liền với Huế. Nói đến Huế nghĩa là nói đến sông Hương và nghĩ về sông Hương là nghĩ đến Huế →Điểm nhìn nghệ thuật của t/giả về sông Hương
a.Sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp của 1 sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính:• Mãnh liệt qua các ghềnh thác: “Cuộn xoáy như cơn lốc” “Là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”.
• Sông Hương đi qua lòng Trường Sơn “… đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di- gan phóng khoáng mà man dại”với một “Bản lĩnh gan dạ, 1 tâm hồn tự do và trong sáng”
• H/ảnh gợi lên sự dịu dàng và đắm say: “Cũng có lúc trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
 Dòng sông được thổi bằng ngọn gió tâm hồn rào rạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng nguồn.
 Theo t/giả nếu ai mãi mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của dòng sông thì sẽ không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ giống như tâm hồn của cô gái Di-gan vừa sục sôi vừa đằm thắm.
 Cái “tôi” cảm nhận vẻ đẹp sông Hương một cách dịu dàng và say đắm
b.Trước khi vào TP Huế “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái”. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại sông Hương như: “Cô gái đẹp ngủ mơ màng” để “Mang 1 sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.  SH chở nặng phù sa nuôi dưỡng sự sống cho con người, làm nên một vùng văn hoá rất đỗi tự hào của đất nước ta.

c.Khi vào thành phố Huế : Hình dáng mềm mại, uốn lượn nên thơ “ chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh một cách đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “Dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”.  Sự hiểu biết về địa lí đã giúp t/giả miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với h/ảnh rất trữ tình
Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối: “Nó trôi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu bảo”→Tên những quả đồi phía Tây Nam thành phố Huế. Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây nam thành phố: “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” sông Hương lại có vẻ đẹp “trầm mặc” chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
 Sông Hương mang vẻ đẹp màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ,
 Sông Hương có vẻ đẹp “Vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long
 Sông Hương có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa dần thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
 Bút pháp so sánh lãng mạn mà thi vị.Đó là h/ảnh chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Nhà văn như thổi linh hồn của con người vào cảnh vật: “Dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói của tình yêu”, “Những nhánh sông đào mang nước của sông Hương tỏa đi khắp phố thị với những cây đa cây cừa, cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ những nơi ấy vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của 1 linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào nhìn thấy được”.
d.Trước khi ra biển, Sông Hương là nỗi vương vấn, “kín đáo của tình yêu”. Sông Hương như trở lại: “Để nói một lời thề trước khi về biển cả”. “…Như sực nhớ lại 1 điều gì chưa kịp nói,nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ...Đấy là nỗi vương vấn, cả 1 chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Giống như nàng Kiều...sông Hương đã chí tình trở lại tìm KT của nó, để nói 1 lời thề trước khi về biển cả.Rồi t/giả liên hệ: “Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hươngxứ sở”.
 Bằng bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn với hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy của sông Hương qua các địa danh khác nhau của xứ Huế, đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hòa làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô. Với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy trong sự phát hiện thú vị của t/giả khi sông Hương chảy vào thành phố Huế.

2)Vẻ đẹp sông Hương khám phá dưới góc độ văn hóa:
-Sông Hương- dòng thi ca .
• “Dòng sông trắng- lá cây xanh”→ thơ Tản Đà (Chơi Huế)
• “Như kiếm dựng trời xanh”→ thơ Cao Bá Quát (Trường giang như kiếm lập thanh thiên)
• “Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
(thơ-Thu Bồn)
“Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó..”.
 Vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ, chất trữ tình

-Sông Hương –dòng sông gắn với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. Tác giả tưởng tượng: “Trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Ngòi bút tài hoa kết hợp với sự rung cảm trong tâm hồn nhà văn , t/giả nhớ tới Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều và ảnh hưởng của Tứ đại cảnh (Tên một bản nhạc cổ ở Huế, tương truyền do Tự Đức sáng tác) để diễn tả tiếng đàn của Thúy Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua / Đục như nước suối mới sa nửa vời”.
 Dòng sông thấm đẫm chất nhạc, mang hồn văn hóa dân tộc”→Phải có độ nhạy về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc xứ Huế, t/giả mới cò sự liên tưởng này

3)Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử
-Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là 1 dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng
-Tên của sông Hương được ghi trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi: Nó được mang tên là Linh Giang (Dòng sông thiêng)→ Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt.
* Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ.
* Nó đọng lại với máu của những cuộc khởi nghĩa “Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”
* Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
* Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc.
* “Sông Hương là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” Sử thi là chiến công gắn với mốc lịch sử đất nước, bản anh hùng ca dịu dàng tươi mát.
Điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: Khi nghe lời gọi, nó biết tự hiến mình làm 1 chiến công, để rồi nó trở về cuộc sống bình thường, làm 1 người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

4.Sông Hương-Vẻ đẹp của một di sản văn hóa của nhân loại
-T/giả sử dụng đoạn văn của Hội đồng hòa bình thế giới (UNESCO): “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật, về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là 1 thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin…Một số trong các di sản đó bị phá hủy lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ. Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi 1 số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đoạn văn thuyết minh này có cảm xúc như đoạn văn tùy bút, t/giả đánh giá cao di sản thiên nhiên, Huế là di sản văn hóa thế giới, sử dụng đoạn văn này thực sự là 1 kiểu đòn bẩy nghệ thuật nâng tầm vẻ đẹp của Sông Hương, của Huế.

III. Đánh giá:
1. Nghệ thuật: Trích đoạn thể hiện rõ “Cái tôi “tác giả HPNT
- T/giả sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật →Nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, văn viết giàu hình ảnh…
- Bằng tưởng phong phú kết hợp sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, t/giả đã tạo nên áng văn đặc sắc về Sông Hương-Một trong những niềm tự hào sâu sắc của Huế, của người Việt Nam
-Tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, tác giả đã soi bằng tâm hồn mình vào tình yêu quê hương xứ sở, đặt biệt là dòng sông quê hương khiến cho dòng sông Hương trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người.
-Đoạn trích bài bút kí “AĐĐTCDS” là đoạn văn xuôi súc tích thấm đẫm chất thơ, chất nhạc, chất họa về sông Hương.
- Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của TP là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú của một nhà văn có tình yêu đặc biệt với mảnh đất và văn hóa quê hương.
2. Nội dung: (Ý nghĩa nhan đề)
-“AĐĐTDS” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả đế với hành trình lịch sử tìm về cội nguồn và văn hóa dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa thi ca…Kết thúc tùy bút là 1 huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống dòng sông, để làn nước thơm tho mãi”. T/giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử.
-Nhan đề và kết thúc TP thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của t/giả giàu sức gợi, thấm đẫm chất thơ. Qua đó t/giả ca ngợi cảnh vật sông Hương –Con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa Huế của dân tộc ta.TP thể hiện lòng yêu mến say mê cảnh vật, văn hóa đất nước. H/ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất trí tuệ, chất văn hóa và ngôn ngữ trong sáng chọn lọc, tinh tế.

III. TỔNG KẾT:
“AĐĐTCDS” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường có sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều khi miêu tả hình tượng dòng sông Hương với vẻ đẹp thiên nhiên phong phú đầy chất thơ như đời sống tâm hồn con người xứ Huế. Qua đó t/giả thể hiện tình yêu, niềm tự hào tha thiết về quê hương đất nước.

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2009

KTC ĐỢT 2 2008-2009 VTS CT NÂNG CAO

ĐỀ KIỂM TRA CHUNG ĐỢT 2 – NĂM HỌC 2008 – 2009
MÔN: VĂN 12 - NÂNG CAO
Thời gian: 90 phút

I. Câu hỏi: 3 điểm
1. Kiến thức văn học (2 đ)
a/ Nêu vắn tắt đặc điểm con người nhà văn Nguyễn Tuân.
b/Trình bày quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng Tháng Tám ?
2. Tiếng Việt (1 đ)
Xác định nhịp, vần và sự phối hợp bằng trắc trong những câu thơ sau
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?”
( Trích “ Truyện Kiều”-Nguyễn Du)
II. Làm văn: (7 điểm)
Cảm nhận của anh ( chị) về dòng sông thơ mộng trữ tình trong tác phẩm “ Người lái đò sông Đà” ( Nguyễn Tuân)
------HẾT------

ĐÁP ÁN THI ĐỢT 2 – NĂM HỌC 2008 – 2009
MÔN: VĂN 12 - NÂNG CAO

Câu hỏi:3 điểm
1. Văn:
a/Nêu đặc điểm con người NT : Mỗi ý 0.25 điểm
b/Nguyễn Tuân sáng tác từ những năm 1930, nổi tiếng từ 1938 , viết nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn,thơ…Đặc biệt thành công ở tùy bút-bút kí. (0.25)
a/ Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân sáng tác 3 đề tài chính :
_ Đề tài” chủ nghĩa xê dịch”: ghi lại vẻ đẹp của thiên nhiên,đất nước(” Một chuyến đi”) (0.25)
_ Đề tài” vẻ đẹp quá khứ “ :ca ngợi những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc(“ Vang bóng một thời”)(0.25)
_ Đề tài” đời sống trụy lạc”: nhưng thể hiện niềm khát khao một thế giới thanh cao tinh khiết (Chiếc lư đồng mắt cua) (0.25)
è Mỗi ý 0.25 điểm

2. Tiếng Việt:
Xác định nhịp, vầng, sự phối hợp bằng – trắc trong những câu thơ sau :
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu.”
* Về nhịp : Đoạn thơ ngắt nhịp chẵn, nhịp đôi.
* Vần :
- Tiếng cuối câu lục vần với tiếng thứ sáu câu bát.
- Tiếng thứ cuối câu bát vần với tiếng cuối câu lục tiếp theo.
- Như vậy, câu bát có hai vần: vần lưng ở tiếng thứ 6 và vần chân ở tiếng thứ 8
* Phối hợp bằng trắc :
- Tiếng thứ hai, sáu, tám mang thanh bằng.
- Tiếng thứ tư mang thanh trắc.
Các tiếng khác tự do.

Làm văn: 7 điểm
A. Về kĩ năng:
- HS nắm vững phương pháp phân tích (cảm nhận) nhân vật.
- Bài viết có bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát, dùng từ chính xác, viết chính tả đúng, có cảm xúc.
B. VỀ KIẾN THỨC: Cần làm rõ các ý sau:
a.NỘI DUNG: HS có thể làm theo nhiều cách miễn là làm rõ vẻ thơ mộng trữ tình của dòng sông Đà trên các phương diện.
-Hình dáng
-Màu nước đổi sắc theo mùa
-Màu nắng Đường thi huyền ảo
-Cảnh hai bờ sông hoang sơ-trữ tình
2. Đánh giá:
Nguyễn Tuân đã sử dụng thành công thể văn tùy bút, thể hiện cảm xúc mãnh liệt, trí tưởng tượng phong phú kết hợp nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài tình, ngôn ngữ giàu chất thơ và tính nhạc cao
Qua đó,
-Nguyễn Tuân đã ngợi ca quê hương đất nước tươi đẹp thơ mộng trữ tình.
-Ta cũng thấy được sự tài hoa uyên bác và tấm lòng của yêu nước của NT.
-Ta cũng thấy sự lao động khó nhọc của người nghệ sỹ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
C. THANG ĐIỂM
_ Mở bài – Kết luận = 1 điểm
_ Thân bài = 5 điểm
_ Đánh giá = 1 điểm