Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2010

Khổ 10 bài "Việt Bắc" của Tố Hữu

Cảm nhận về khổ 10 trong bài "Việt Bắc "của Tố Hữu
------------------------------
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại cho đời nhiều tập thơ như: '' Từ ấy'', ''Việt Bắc'', '' Máu và hoa'', ... tất cả đều mang một phong cách nghệ thuật độc đáo. Đó là một hồn thơ cách mạng sôi nội, mãnh liệt.Đó là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của lòng thương mến và ân tình thủy chung. Đặc biệt, bài thơ '' Việt Bắc '' trong tập thơ cùng tên của TH là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ở bài thơ ấy, TH đã khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ thứ 10 với nỗi nhớ người lãnh đạo cách mạng- chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cha của dân tộc.
''Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi...Mình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.''
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoài bình trở lại nước ta, miền bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Lúc này, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. đây cũng chính là lúc TH đã sáng tác nên bài thơ ''Việt Bắc''. phần đâu của bài thơ tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu sâu đậm trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.
'' Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau dớn giống nòiTrông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền''
Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết- người đã mở cho Cách mạng Việt Nam một con dường mới. Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ''ở đâu'' đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: "" u ám quân thù'', '' đau đớn giống nòi''. Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu đồng bào ta bị chất đói,... - một hiện thực khó mà phai mờ được. Để làm nhẹ dịu hình ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: '' Cụ Hồ sáng soi'', ''mà nuôi chí bền'' ở câu thơ 8 chữ. Điệp từ ''nhìn'' và ''trông'' ở hai câu thơ 8 chữ đểu hướng về Việt Bắc - trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. ''Cụ Hồ sáng soi'' gợi đến ánh sáng của lí tường soi đường cho dân tộc, ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt , áng sáng của niềm tin và hy vọng. Cụm từ '' mà nuôi chí bền '' diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì , phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế nào thì chỉ cần nhìn về VB nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền , trường kì kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.
Mười lăn năm ấy, ai quênQuê hương Cáng mạng dựng nên Cộng hòaMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào...
Bốn câu thơ cuối trong khổ là lời khằng định của người cán bộ về xuôi, cán bộ sẽ không quênc 15 năm ấy- 15 năm chúng ta đã từng gắn bó thiết tha mặn nồng, đấu tranh dành độc lập tự do cho dân tộc; cán bộ sẽ không quên VB là quê hương của Cánh mạng bởi chính nơi này mình và ta đã cùng nhau đấu để có được nền Cộng hòa cho ngày hôm nay. Một lần nữa TH lại nhắc đến 2 địa danh nổi tiếng và 2 sự kiện nổi bật đã từng diễn ra ở VB '' Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'' chỉ để nhấn mạnh rằng mình sẽ luôn nhớ về VB - cái nôi của Cách mạng. Ẩn trong nỗi nhớ ấy chình là lòng biết ơn sâu sắc và lời hứa sẽ luon thủy chung của người cán bộ miền xuôi với cán bộ miền ngược.
Qua đoạn thơ trên ta thấy con người VB hiện ra nội bật với tấm lòng thủy chung sâu sắc, gắn bó với Cách mạng với kháng chiến. Đó là những con người có lòng tin vào Bác Hồ , vào sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng . Đồng thời qua khổ thơ trên tác giả đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên ,con ngườ, cuộc sống lao động và chiến đấu của núi rừng VB trong suốt 15 năm. Đây có thể được coi là đoạn tổng kết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng với đoạn thơ trên, ta thấy rõ hơn về phong cách thơ TH mang đậm màu sắc dân tộc. Kết cấu thơ theo lối đối đáp, diễn đạt theo thể thơ lục bát tạo nên sắc thái trữ tình nhưng không kém phần sáng tạo mới mẻ. TH đã dùng cách diễn đạt rất riêng tư để thể hiện nghĩa tình cách mạng rộng lớn. Đoạn thơ trên là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, là đoạn thơ có tính trữ tình chính trị sâu sắc. Đây cũng là đoạn thơ khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người VN luôn sống gắn bó thủy chung cho dù trong những ngày khó khăn hay hạnh phúc.

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

Khổ 5 bài Việt Bắc - Tố Hữu

Nguyễn Thị Quế Khanh
Lớp 12A7
Bài viết số 2
Đề: Nêu cảm nhận về khổ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
------------------------
Bài làm

TỐ HỮU, một cái tên không hề xa lạ với bạn đọc yêu thơ . Qủa thật là vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Tố Hữu đã và sẽ luôn là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca Cách mạng VN. Ở TH, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là bài VIệT BắC.Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ vế xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bàn khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cây ngọt bùi”
VIệT BắC là căn cứ CÁCH MạNG, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên nhiên và đồng bào VIệT BắC đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm trời. Bài thơ VIệT BắC được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trởi về Hà Nội. Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chug của người CB về xuôi với VIệT BắC, với cuộc kháng chiến, với CÁCH MạNG. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người VIệT BắC.
Một nỗi nhớ da diết, không nguôi được tác gỉa hình dung thật lạ
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Một chữ “gì” hàm chứa biết bao điều, phải chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với nhân dân cùng quãng thời gian kháng chiến đầy ấp kỷ niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, hình ảnh so sánh thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền miên, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung cảnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng định đối tượng được nhớ đến - VIệT BắC:”Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” rồi sau đó là những hình ảnh miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng VIệT BắC
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Hình ảnh thiên nhiên VIệT BắC được liệt kê đến từng chi tiết. Rõ ràng tác giả vẫn nhớ rất rõ những kỷ niệm cùng khung cảnh VIệT BắC. “Người thương”, hai chữ thôi nhưng chứa đựng biết bao ân tình. Đây chính là những con người VIệT BắC đã cưu mang, che chở cho cán bộ trong suốt một quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy, Phải chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình thứ hai của mình.Vần chân “sương” và “người thương” làm cho giọng điệu câu văn trở nên da diết, diễn tả một nỗi nhớ bịnh rịnh, lưu luyến, không muốn rời xa. Vẫn tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gọi địa danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trả qua:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Dù là một nơi nhỏ trong chốn núi rừng Việt Bắc bao la, nhưng dường như trong ký ức của tác giả nó cũng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.Một sự khẳng định chắc chắn…không bao giờ có thể quên:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Dù bản thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ xưng hô thật giản dị mà thân thương. “Mình” cùng “ta” nào có thể quên được những “đắng cay ngọt bùi” đã trải qua. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó nhọc, gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ kháng chiến, còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng nỗi nhớ như tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu hơn sự nhớ nhung ngghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của TH. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.
Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người VN trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, TH đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân VIệT BắC không chỉ là tìh cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy VIệT BắC đã trở thành tp tiêu biểu cho VĂN HọC VIệT NAM thời KCCP
Bằng những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chugn thủy sắt son giữa người CB với nhân dân, thiên nhiên VIệT BắC cùng cuộc kháng chiến được khắc họa rõ nét. Thật hiển nhiên, TH xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca CÁCH MạNGVN

Khổ 1 -2 bài Việt Bắc

Trong cuộc đời mỗi con người ai cũng có ít nhất một niềm thương nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ đã trở thành một đề tài được ko ít các nhà thơ, nhà văn nói đến. Nếu như Quang Dũng hướng nỗi nhớ của mình về với núi rừng Tây Bắc, với đoàn quân Tây Tiến hay trong kí ức của Hoàng Cầm là hình ảnh đoàn xe không kính lao đi giữa bom đạn trường sơn ác liệt. Thì “Việt Bắc” của Tố Hữu lại là giọng điệu ân tình thủy chung như ca dao, khắc họa sâu sắc nỗi niềm của người con rời “thủ đô kháng chiến” mà trong thâm tâm đầy ắp kỉ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng “kẻ ở- người đi”, hình bong của núi rừng-con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng kí ức với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Và nỗi nhớ da diết ấy đã được khắc họa rõ nét qua khổ một và hai của bài thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Mở đầu bài thơ là lời hỏi đầu tiên của người ở lại:“Cán bộ về xuôi Hà Nội có nhớ Việt Bắc hay không?”. Trong câu thơ đầu, “mình” chính là những người cán bộ về xuôi, là Đảng, là Chính phủ, còn “ta” là người ở lại, là nhân dân Việt Bắc. Bên cạnh đó, Tố Hữu đã có cách sử dụng đại từ “mình-ta” sáng tạo vừa làm cho lời thơ mang giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết vừa thể hiện nghĩa tình Cách Mạng.
Nhân dân Việt Bắc hỏi cán bộ về xuôi có nhớ đến nhân dân Việt Bắc hay không, có nhớ đển “mười lăm năm ấy” chúng ta dã từng gắn bó thiết tha mặn nồng hay không? Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi liên tưởng đến một khoảng thời gian dài (1940-1954). Và trong “mười lăm năm ấy”, đồng bào cũng như thiên nhiên Việt Bắc đã từng cưu mang Đảng, Chính phủ, Cán bộ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Từ láy “thiết tha” cùng với hình ảnh ẩn dụ cảm giác “mặn nồng” gợi nên một gắn bó sâu nặng, đầy nghĩa tình giữa Cán bộ với nhân dân Việt Bắc.
Mặt khác, điệp từ “có nhớ” cùng với hai câu hỏi tu từ liên tiếp nhau chứng tỏ người ở lại quan tâm nhất đến “Cán bộ về xuôi có nhớ Việt Bắc hay không?”. Nhìn cây có nhớ đến núi (hoán dụ), nhớ đến cảnh vật thiên nhiên Việt Bắc hay không? Nhìn song có nhớ đến ngọn nguồn( ẩn dụ), nhớ đến cái nôi của kháng chiến hay không? Tác giả đã khéo léo sử dụng những hình ảnh hoán dụ, ẩn dụ thông qua những hình ảnh quen thuộc, mang đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Qua bốn câu thơ đầu, ta thấy tác giả đã nêu được chủ đề bài thơ, thể hiện khá rõ tình cảm gắn bó giữa người đi và người ở lại.Tố Hữu sử dụng những hình ảnh quen thuộc, cách diễn đạt mang đậm tính dân tộc, thể thơ lục bát với cách ngắt nhịp chẵn kết hợp với biện pháp đặc Kiều “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” đã làm nên giọng thơ tâm tình, mặn nồng, tha thiết, phù hợp với việc bày tỏ tâm trạng của người đi kẻ ở trong một buổi chia tay đầy lưu luyến.
Nểu như ở khổ đầu là lời hỏi thăm của nhân dân Việt Bắc dành cho Cán bộ thì đến với khổ hai lại là lời bày tỏ tâm trạng của người Cán bộ trong buổi chia tay bâng khuâng, lưu luyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Cuộc chia tay diễn ra ở “bên cồn”, đây là một hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến đó, người đi-kẻ ở đều có những nỗi nhớ riêng. Nỗi nhớ của người ở lại được bộc lộ khá rõ qua cụm từ :“tiếng ai tha thiết”.



“Tiếng ai” chính là tiếng của nhân dân Việt Bắc, tác giả đã sử dụng đại từ “ai” nghe
rất đỗi ngọt ngào. Từ láy “tha thiết” vừa miêu tả giọng điệu thiết tha, vừa thể hiện tình cảm châm thành của người ở lại. Ngược lại, tiếng của người ở lại muốn hỏi Cán bộ về xuôi có nhớ Việt Bắc hay không?
Tâm trạng của người ra đi được miêu tả qua từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” gợi cho người đọc cảm nhận được sự lưu luyến, nhớ nhung, một cảm giác vui buồn khó tả trong buổi chia tay. Nhớ vì đã cùng chung sống mười lăm năm, lưu luyến vì có biết bao nhiêu là kỉ niệm, buồn vì lo lắng tình cảm của mình có được như xưa hay không?, vui vì chiến thắng, cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công dù phải trải qua biết bao gian khổ cực nhọc. Những tâm trạng đó được thể hiện qua hành động “cầm tay nhau”. Với biết bao tâm trạng nhưng người ra đi không biết nói gì ngoài việc cầm tay nhau . “Cầm tay” là hành động yêu thương, gắn bó nghĩa tình với Việt Bắc, tình cảm lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa. Cầm tay nhau còn thể hiện tinh thần đoàn kết, hứa sẽ thủy chung son sắt, xa nhau sẽ nhớ về nhau.
Lời đáp của người ra đi không chỉ bộc lộ tâm trạng mà còn trả lời vấn đề mà người ở lại đã đặt ra ở khố thơ đầu tiên. Tố Hữu có cách dùng từ ngữ, hình ảnh mang đậm sắc dân tộc , giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, ngắt nhịp đều đặn. Qua lời đáp, ta thấy được tính cách của người đi- sống tình nghĩa, thủy chung, gắn bó với nhau. Thấp thoáng trong lời đối đáp là hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc đặc trưng với núi non, với cồn ven song. Qua đó, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với nét phóng khoáng, hoang sơ và chân thật.
Đoạn thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhở tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

Thứ Ba, 12 tháng 10, 2010

Khổ 3 bài Việt Bắc - Tố Hữu

Tên :Phạm Nguyễn Thùy Dương 12-10-2010
Lớp : 12A7 – 08 - 2010-2011
---------------
Đề: Phân tích 12 câu thơ trong khổ 3 của bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu
Bài làm
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình Cách Mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng. Bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày
…….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”,điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu VB nữa không ?”. Để cho VB hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên VB “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng VB, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Ngệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của VB nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân VB đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ…Thiên nhiên và con người VB nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để già” – “trám bùi và măng mai” là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là “đặc sản” của thiên nhiên VB. “Mình về” khiến núi rừng VB bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân VB vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật VB, con người VB, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân VB hay không ?Chứ nhân dân VB nhớ cán bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi ”hắt hiu lau xám”.Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên VB “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng,đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là “tấm lòng son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người VB. Ngoài ra, nhân dân VB còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”, nhớ thiên nhiên VB hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không ? Chính nghĩa tình của đồng bào VB đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho VB – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng av2 trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách.Mếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là VB – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân VB, nhớ đến người ở lại không ?”. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay không?”. Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở VB. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào” (12/1944), đây là nơi đội VN tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân VN- lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. CÒn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc CMT8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng VB chính là cái nôi của CM, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với VB như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?”
Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.
“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài VB. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám…” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng son” sẽ không bao giờ phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân VB,của những cán bộ về xuôi ./.