Thứ Năm, 9 tháng 7, 2009

Đề đáp án ĐH 2009

Khối C
Tham khảo:
Thanh niên online http://www.thanhnien.com.vn/News/Documents/GiaoDuc/DHCD2009/Goi%20y/GoiymonVankhoiC.doc


Chính thức của BGD:


Khối D
Tham khảo
Thanh niên online: http://www.thanhnien.com.vn/News/Documents/GiaoDuc/DHCD2009/Goi%20y/GoiymonVankhoiD.doc


Chính Thức của BGD:



So sánh người Vợ nhặt và người Đàn bà hàng chài

Câu III.a. Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm): Khối C ĐH 2009

Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
- Kim Lân và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Vợ nhặt ” và “Chiếc thuyền ngoài xa” là những truyện ngắn dung dị nhưng đã để lại nhưng ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả.
- Qua hai thiên truyện, các tác giả đã giúp người đọc khám phá và rung động trước những “vẻ đẹp khuất lấp” của những con người lam lũ, đói khổ, đặc biệt là nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà làng chài.
- Vẻ đẹp khuất lấp là những vẻ đẹp không dễ nhận thấy, thường ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí… Nguyễn Minh Châu luôn tâm niệm: thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người.
- Người vợ nhặt và người đàn bà làng chài đều là những người vô danh tính, có só phận nhiều thua thiệt, bị cuộc sống dồn đẩy vào những hoàn cảnh trớ trêu, éo le…
- Tuy nhiên, ở họ vẫn lấp lánh những vẻ đẹp:
+ Tình yêu cuộc sống mãnh liệt: người vợ nhặt bỏ qua những mạc cảm, sự sĩ diện… theo không một người đàn ông mới gặp để không bị cái đói cuốn xuống vực thẳm; người đàn bà làng chài nhẫn nhịn chịu đựng người chồng vũ phu để được hưởng niềm vui làm vợ, làm mẹ…
+ Đức hi sinh, lòng vị tha: người đàn bà làng chài không oán chồng, luôn nhận lỗi về mình trong bi kịch gia đình, luôn trân trọng, chắt chiu những niềm vui nhỏ bé; người vợ nhặt đã chấp nhận thực tế phũ phàng để cùng mẹ con Trang xây dựng tổ ấm gia đình…
+ Thấu trải lẽ đời: người đàn bà làng chài đã khiến Đẩu và Phùng ngộ ra những chân lí sâu kín của cuộc đời, người vợ nhặt đã hiểu thấu tấm lòng nhân ái bao dung của bà cụ Tứ mà thay đổi để trở thành dâu con trong gia đình….
- Với việc khám phá, ngợi ca những vẻ đẹp khuất lấp tiềm ẩn của tâm hồn con người lao động bình dị, lam lũ, hai nhà văn đã góp phần tạo nên những giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc.

Tình huống truyện trong CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Câu III.b. Chương trình Nâng cao (5,0 điểm): ĐH 2009 Khối D
Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
1. Giới thiệu chung:
Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân
- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.
2. Phân tích tình huống truyện
a -Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
b- Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện
- Ở ngoài bãi biển
+ Nghệ sĩ Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp trời cho trên một vẻ đẹp mờ sương, mặt biển mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: hình ảnh chiếc thuyền lướt vó nhạt nhoà trong làn sương mù màu trắng buổi bình minh… Phát hiện ấy khiến người nghệ sĩ cảm thấy sung sướng hạnh phúc, tưởng tâm hồn mình được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi, bắt gặp các tận Thiện, tận Mĩ.
+ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện ra một sự thực trớ trêu và đầy nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch dữ dằn độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách giải toả những ấm ức khổ đau. Phùng cay đắng nhận thấy: hoá ra đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của “chiếc thuyền ngoài xa” trên biển sớm mờ sương lại là một sự thực tàn nhẫn của bi kịch gia đình. Đằng sau cái vẻ đẹp ấy mới là sự thực của cuộc đời. Cái vẻ đẹp bên ngoài ấy nhiều khi thường đánh lừa ta như vậy.
- Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hang chài van xin để toà cho chị được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời.
c-Ý nghĩa tình huống truyện:
- Giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng và nghệ thuật: cái bên ngoài chưa hẳn là bản chất thật bên trong, nhiều khi còn đối lập với phẩm chất bên trong, không phải bao giờ cái Đẹp cũng thống nhất với cái Thiện, vì thế, cần phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc, cảm thông với cuộc sống và con người. Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm người nghệ sĩ: Không nên tách rời nghệ thuật với cuộc đời, cần phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật; nghệ sĩ không được nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, và biết trăn trở về con người.
- Thể hiện một cách rõ nét nhất khả năng ứng xử, phẩm chất, tính cách của các nhân vật:
* Người đàn bà:
+ Chịu nhiều thua thiệt, éo le của số phận, cuộc đời chất chồng những cay đắng khổ đau: vất vả trong công cuộc mưu sinh, thường xuyên bị hành hạ về thân xác, đau khổ dằn vặt về tinh thần
+ Nhưng ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.
* Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
+ Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác.
+ Hiện thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.
- Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

Nhóm giáo viên môn Văn trường THPT Chu Văn An - Hà Nội

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2009

Để làm tốt môn Văn nên dùng chiến thuật "Rút xương cá"

Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung - Giáo viên Ngữ Văn, trường THPT chuyên ngữ - Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội: Tài liệu tham khảo ôn tập môn Văn hiện rất nhiều. Trong số đó, có những vấn đề còn gây tranh cãi như: Ngày sinh của nhà văn Nam Cao, vở kịch “Hồn trương Ba da hàng thịt” được viết năm nào... Nếu kiến thức chưa thống nhất, thí sinh nên sử dụng số liệu từ sách giáo khoa.
Điểm quan trọng nhất của môn Văn là nhớ được kiến thức, chỉ cần dựa vào tác phẩm, nhớ tác phẩm là làm bài tốt.
Học sinh có thể tham khảo phương pháp “rút xương cá”: Học Văn theo cách sơ đồ hóa. Mỗi bài, học sinh chỉ cần nhớ năm chữ và trong khoảng 10 phút có thể nhớ hết toàn bộ kiến thức môn Văn.
Ví dụ, khi phân tích tính sử thi của tác phẩm “Rừng xà nu”, theo tôi, các em chỉ cần nhớ bốn từ: Chủ - Cốt - Hình - Giọng (Chủ đề, cốt truyện, hình tượng và giọng điệu sử thi trong tác phẩm).
Nếu vận dụng được phương pháp “rút xương cá” một cách hiệu quả, sẽ không bị mất các ý môn Văn và việc đạt điểm 8, hay 9 không phải "bất khả thi".
Hay, phân tích hình tượng sóng trong bài “Sóng” của Xuân Quỳnh, các em chỉ cần nhớ bốn chữ: “Phức - Trăn - Khắc - Khát” (tâm trạng phức tạp, trăn trở, khắc khoải và khát khao của người phụ nữa đang yêu). Từ đó, phát triển ý của bài văn.
Đây là năm đầu tiên có kiểu đề mới nghị luận xã hội và thường học sinh kêu “khô”. Tuy nhiên, quan trọng là phải đọc đề kỹ, hiểu chính xác vấn đề, trả lời đúng, sâu vào trọng tâm câu hỏi.
Thí sinh không nên dẫn dắt vòng vèo, lan man, mất thời gian và gây ức chế cho người chấm.

Tiền phong online

Kinh nghiệm làm bài môn Văn

Cô Nguyễn Thị Phương Liên, nguyên giáo viên chuyên Văn trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (Q.5, TP.HCM), hiện đang tham gia giảng dạy tại trường ĐH Kiến trúc TP.HCM: Không nên học tủ

- Trước ngày thi, các TS đừng căng thẳng quá và đặc biệt là không nên tin vào những tin đồn trên internet về đề thi, tránh học tủ, đoán mò, phải tập trung tinh thần để có cảm hứng viết bài. Ngoài ra, không nên loại trừ đề thi trong ba năm gần đây, không nghiêng hẳn về một thể loại văn xuôi hoặc thơ mà phải ôn tập cả hai.

Đề thi có ba yêu cầu: nội dung, phương pháp và tư liệu. Khi cầm đề thi, TS phải chú ý yêu cầu phân tích của đề về tác phẩm, tránh viết lan man. Nhiều TS học rất nhiều, ôm đồm kiến thức mà không biết ứng dụng nó vào trường hợp thực tế, dẫn đến tình trạng làm bài dư thừa, dài dòng. Nhiều trường hợp TS biến bài phân tích một đoạn trích, một khía cạnh của tác phẩm thành bài phân tích cả tác phẩm. Những trường hợp "phăng" ý không có cơ sở và chép nguyên si bài giảng của thầy cô trong lớp về các tác phẩm thường bị dưới điểm trung bình vì không bám sát đề.

Cấu trúc đề thi thường có ba câu bao gồm: phần lý thuyết và phần tự luận. Câu lý thuyết mang tính kiểm tra kiến thức, thường chiếm 2 điểm. Hai câu còn lại kiểm tra sự cảm thụ tác phẩm, cách lập luận và kỹ năng làm bài của TS. Yêu cầu chung với câu lý thuyết là trả lời đúng yêu cầu của đề thi, ngắn gọn, rõ ràng và đủ ý. Với những câu tự luận, TS nên trình bày đúng bố cục mở bài, thân bài, kết bài. Phần thân bài nên chú ý lập luận chặt chẽ, rõ ràng, nên viết ra giấy nháp dàn ý đề cương phần thân bài, chia các ý lớn theo trình tự lập luận.

Về cách trình bày, nên chú ý những lỗi chính tả (dấu hỏi, dấu ngã, các âm cuối), lỗi viết hoa... Chẳng hạn cách viết bài thơ Thu Điếu, Tràng Giang là sai, mà phải là Thu điếu, Tràng giang.

Một điều không kém phần quan trọng mà nhiều TS thường bị mất điểm là không biết cách đưa dẫn chứng vào bài làm. Dẫn chứng đưa vào bài phải chính xác (dẫn chứng đúng yêu cầu của luận điểm cần chứng minh, phân tích), gọn (làm nổi bật luận điểm vấn đề cần phân tích) và phải tiêu biểu. Đối với văn xuôi, TS có thể dẫn chứng nguyên văn hoặc tóm lược dẫn chứng, nhưng không được kể chuyện. Tốt nhất là xen kẽ tóm lược dẫn chứng với những lời bình luận, phân tích.

Thạc sĩ Lưu Văn Quyết, giảng viên Khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH-NV TP.HCM: Lập dàn bài vào giấy nháp trước khi viết

Thời gian thi đã gần kề, các TS không nên nhồi nhét kiến thức, hãy nghỉ ngơi để giúp tinh thần thoải mái.

Khi cầm đề thi nên đọc kỹ để xác định yêu cầu của đề là phân tích, so sánh hay nhận định các sự kiện lịch sử, tránh làm lạc đề. Đặc biệt, nên khoanh vùng thời gian và sự kiện lịch sử diễn ra ở giai đoạn/thời kỳ nào. Khi đọc đề, nên viết nhanh vào giấy nháp để không quên. Sau đó, lập đề cương trong giấy nháp khoảng 10-15 phút, vạch ra những sự kiện chính và đánh dấu những cột mốc quan trọng để viết kỹ hơn.

Chỉ nên chọn những câu nào làm được thì làm trước, tạo tâm lý thoải mái, không nên chọn câu nhiều điểm và sa lầy vào mất nhiều thời gian. Phần mở bài không nên viết quá dài, chỉ chuyển ý ngắn gọn vài dòng rồi chuyển ngay vào trọng tâm để kịp thời gian.

Về cách trình bày, sau khi hết một ý chính, một sự kiện nên xuống hàng và thụt đầu dòng, trình bày văn phong trong sáng, chữ viết sạch đẹp.

Một điều TS cần lưu ý là nên phân chia thời gian cho các câu hỏi, cố gắng làm hết, không bỏ sót. Và cuối giờ thi nên dành 10-15 phút đọc lại bài. Đây là một bước không kém phần quan trọng để TS nhận ra những thiếu sót của mình trong quá trình làm bài.


Cẩm Thúy - Thanhnien online

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2009

Hạt bụi vàng lấp lánh

Tác giả:
-Nguyễn Khải là người trải nghiệm nhiều , thời niên thiếu đầy éo le hình thành đặc điểm riêng trong tính cách và sáng tác của nhà văn: nhẫn nhịn, tỉnh táo, sắc sảo, hiểu đời, hiểu người, già dặn, suy tư.
- Tác phẩm chính: Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Cha và Con và… (tiểu thuyết, 1979), Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2004)…
- Đặc điểm sáng tác:
• Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ.
• Nét mới trong cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời và con người:
o Trước 1978: cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, nghiêm ngặt, phân lập đơn chiều; luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, ta – địch, tốt – xấu… => khẳng định xu thế vận động (từ bóng tối ra ánh sáng) của cuộc sống mới, con người mới.
Ngòi bút văn xuôi có khuynh hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo.
o Sau 1978:
Cái nhìn đầy trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận hiện thực xô bồ, hối hả, đầy đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc => chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội.
Lấy việc khám phá con người làm trung tâm => con người cá nhân trong cuộc sống đời thường => nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ => khẳng định, ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay.
Cảm hứng triết luận với giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều suy nghiệm.
+ Vị trí văn học sử: một trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tác phẩm
MNHN tiêu biểu cho các sáng tác của Nguyễn Khải ở giai đoạn sau 1978.
Hình tượng nhân vật cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất diệt của văn hoá Hà thành.
a. Nhân vật cô Hiền.
+ Xuất thân: gia đình giàu có lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan.
+ Một số đặc diểm thời thiếu nữ: xinh đẹp, thông minh, mở xa lông văn chương, giao du rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành.
+ Quan hệ với người kể chuyện xưng “tôi”: chị em đôi con dì ruột với mẹ già.
+ Được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Trước mỗi thời điểm khác nhau, nhân vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện nét cá tính đặc biệt, nhất quán:
- Năm 1955:
• Bối cảnh: từ kháng chiến trở về, một Hà Nội “nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”.
• Nguyên nhân cô Hiền và gia đình ở lại:
Chủ yếu: “họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác” => sự gắn bó máu thịt với Hà thành.
- Kháng chiến chống Mĩ: yêu thương lo lắng cho con nhưng không hề ngăn cản con nhập ngũ
• Người con cả tình nguyện tòng quân => phản ứng: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng” => Nhận thức sâu sắc.
• Người con thứ theo anh lên đường => phản ứng: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”=> “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác(…), vui lẻ thì có hay hớm gì” => Ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng của một người phụ nữ Việt Nam yêu nước, một người mẹ nhân hậu, vị tha.
- Năm đầu Hà Nội vừa giải phóng
• Bối cảnh:
o Tâm lí không đồng nhất: chúng tôi - vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội - chưa thật vui?
• Khi con gọi cháu là “Đồng chí Khải” => cô Hiền chỉnh “anh Khải” => trong khi quán tính số đông vẫn còn phân biệt người cách mạng như những anh hùng trở về thì cô Hiền dường như chỉ chú ý đến mối quan hệ họ hàng với “Tôi” => quan hệ bền vững, không chịu bất cứ sự va đập, biến thiên nào của thời cuộc => biết nhận chân giá trị, biết nhìn vào bản chất của vấn đề, để không bao giờ bị mê muội.
• Khi người cháu hỏi: “Nước độc lập vui quá cô nhỉ?” => phản ứng:
o Trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ” => tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén với hiện thực.
o Nhận xét thẳng thắn, không giấu giếm quan điểm với “người cách mạng” - nhân vật “tôi”: Chính phủ can thiệp nhiều vào việc của dân quá ….=> trung thực, có cái nhìn sâu sát về thời cuộc.
Trong thời kỳ đầu MB XDCNXH: Có bộ mặt tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản được
- Bộ mặt tư sản:
• Cái ở: ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn.
• Cái mặc: “sang trọng quá”
• Cái ăn: “không giống với số đông” => so sánh với lối ăn uống bình dân của gia đình “tôi”
=> Khẳng định: “Cô Hiền đích thị là tư sản”.
-Nhưng thực chất: Không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản:
• Cửa hàng chỉ buôn hoa giấy do chính tay bà làm và các con phụ giúp.
• Đối xử với người làm: vì chủ tớ cần dựa nhau, tình nghĩa như người trong họ.
==> người lao động chân chính, có nhân có nghĩa

-KCCM, bà thương con vô cùng nhưng sẵn sàng cho con ra trận với suy nghĩ “Tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn.Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Bà nói “ Ngăn cản n tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, vui lẻ thì có hay hớn gì” => Cách sống của con người có lòng tự trọng, có bản lĩnh gắn với ý thức trách nhiệm của một công dân yêu nước biết vượt lên cái nhất thời.

==> Tính cách nhân vật được bộc lộ qua nhiều tình huống khác nhau, trong nhiều thời điểm lịch sử.
Số phận con người gắn với từng biến chuyển lớn của lịch sử dân tộc => Cái nhìn hiện thực mới mẻ: phản ánh số phận dân tộc qua số phận một cá nhân.Trải qua bao thăng trầm của thời thế, bản chất, những nét đẹp của nhân vật vẫn thống nhất, không bị phôi pha => thời gian là thứ nước rửa ảnh làm nổi rõ hình sắc nhân vật.
Tính cách cụ thể :
+ Thông minh, tỉnh tảo và thức thời:
- Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.
- “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”
- Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước
• Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.
• Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.
+ Có đầu óc thực tế:
- Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.
- Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.
- Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.
- Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.
+ Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:
- Dặn dò bọn trẻ: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”.
- Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.==> cái nền của đạo đức, của việc làm người
- Suy nghiệm triết học: Hình ảnh cây si bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh
+ Cây si: biểu tượng của văn hóa, nét cổ kính, linh thiêng của đất kinh kì ngàn năm văn hiến.
+ Đổ nghiêng tán cây đè lên hậu cung, một phần bọ rễ bật đất chổng ngược lên trời => sự biến thiên của lịch sử, qui luật nghiệt ngã của tự nhiên.
- Hồi sinh: lại sống. lại trổ ra lá non => niềm tin, lạc quan vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội.
==> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành. (Ý nghĩa nhan đề)

b. Những người Hà Nội khác và suy nghiệm triết học:
+ Những người Hà Nội khác: Chia làm hai tuyến.
- Dũng, Tuất, mẹ Tuất:
• Dũng, Tuất: những thanh niên yêu nước, quả cảm.
• Mẹ Tuất: bà mẹ Việt Nam nhân hậu, giàu đức hi sinh.
=> Những con người cùng với cô Hiền tiếp lửa cho ngọn đuốc văn hoá truyền thống của đất kinh kì cháy sáng.
- Những con người tạo nên những nhận xét “không mấy vui vẻ” của “tôi” về Hà Nội.
• Ông bạn trẻ đạp xe như gió: làm xe người ta suýt đổ, lại phóng xe vượt qua rồi quay lại chửi một người đáng tuổi bác tuổi chú “tiên sư cái anh già” => thô tục, vô văn hóa, không biết lễ độ.
• Những người mà nhân vật tôi quên đường hỏi thăm :”có người trả lời, là nói sõng hoặt hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như con thú lạ” chỉ vì “ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi cái Cúp xem, thưa gửi tử tế ngay” => hám lợi, bị danh vị, hình thức, tiền tài cám dỗ => lối ứng xử trọc phú, không còn nét hào hoa, thanh lịch của người Hà Nội.
 Qua hình tượng các nhân vật, tác giả nhìn thẳng vào sự thật, đặt ra những vấn đề đáng trăn trở => hướng đi mới của văn học:“Tôi thích cái ngày hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen. Đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thỏa sức khai vỡ” (Gặp gỡ cuối năm – Tiểu thuyết).

Giá trị nghệ thuật
+ Ngôn ngữ: kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa
- Cô Hiền: ngắn gọn, logic, rõ ràng.
- Dũng: những lời thật xót xa.
- Ít miêu tả, chủ yếu là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa.(VD hình ảnh cây si, hạt bụi vàng..)
+ Giọng điệu trần thuật:Trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, sử dụng lối văn trần thuật trải đời, vừa tự nhiên, dân dãvùa tĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát triết lý vừa mang giọng điệu đa thanh (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự trào)tăng tính chân thật, khách quan.
- Nguyển Khải đã xây dựng một hình tượng nhân vật khá độc đáo: bà Hiền như Một người Hà Nội đích thực
- Ngôn ngữ sắc sảo, giàu tính trí tuệ, uyên bác, giọng văn linh hoạt: lúc trầm lắng, lúc hóm hỉnh tự trào, lúc sôi nổi thể hiện cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm về con người.  Cảm hứng triết luận - một trong những nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải.
Giá trị nội dung- Qua nhân vất , ta thấy tác giả nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ… để ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của con người và cuộc sống hôm nay.
- Khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội
- Niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau.
=> Tác giả đề xuất một tiêu chuẩn thẩm mĩ về một con người: con người cần được nhìn, khẳng định ở góc độ văn hóa
==> Ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá , đất nuớc, con người Việt Nam.